ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Năm thứ 76
GIÁO LÝ PHỔ THÔNG
Biên soạn: Giáo Sư Ngọc Trường Thanh
Địa chỉ: 18/6 Nguyễn Thái Học, Tuy Hòa, Phú Yên
NGÀY 18-8-1999 ĐẠI THẬP TỰ GIÁ XUẤT HIỆN
MẶT TRỜI
ĐẠI THẬP TỰ XUẤT HIỆN
ĐIỀM TRỜI HUNG HAY KIẾT?
Gần đây các nhà thiên văn và báo chí trên thế
giới đã đăng tin 11/8/1999 là ngày nhật thực toàn phần sẽ diễn ra trên bầu
trời, mà vùng tối toàn phần là thành phố Ba-Lê (Pháp), kinh đô ánh sáng của thế
giới.
Đến ngày 18/8/1999 tức là sau ngày nhật thực
7 ngày thì tám hành tinh trong hệ mặt trời sẽ giăng thành hình chữ thập, người
ta gọi là Đại Thập Tự Giá.
Nhìn vào thập tự chúng ta thấy: Trục dọc từ
mặt trời xuống có: Thủy Tinh, Kim Tinh, (mặt Trăng, Địa cầu), Thiên Vương Tinh
và Hải Vương Tinh. Trục ngang từ trái qua phải có: Diêm Vương Tinh, Hỏa Tinh
(Trái Đất), Mộc Tinh và Thổ Tinh.
Thập tự giá xuất hiện trên bầu trời đối với
địa cầu chúng ta đang sống có ảnh hưởng gì không? Các hành tinh tác động ánh
sáng vào địa cầu sẽ đem lại những hậu quả gì? Điều này cũng khó tiên đoán hoặc
giải thích rõ ràng những gì chưa xảy đến?
Ở đây chúng ta dựa vào Dịch lý, âm dương, ngũ
hành để giải thích, mong góp một phần tìm hiểu điềm Trời sắp xuất hiện.
Các tôn giáo, các nhà tiên tri đều cho biết
đến hai ngàn năm thì địa cầu có nhiều thay đổi. Sự biến động của khí hậu, sự
rối loạn của từ trường, sự phóng thải chất độc, sự khai thác bừa bãi trên mặt
đất và trong lòng đất, và các trận chiến tranh bằng vũ khí tối tân, bằng hơi
độc liên tiếp xảy ra sẽ đem đến cho loài người nhiều tai họa khủng khiếp.
Các tai họa ấy tiêu diệt sự sống hằng ngày,
nên người ta gọi đời đã đến lúc tận thế, mạt kiếp, tự diệt. Có người hiểu tận
thế nghĩa là loài người sẽ chết hết rồi đâm ra hoang mang lo sợ. Chúng ta nên
hiểu tận thế có nghĩa là nền văn minh khoa học vật chất sẽ cáo chung để chuyển
sang nền văn minh đạo đức tinh thần. Nay cần giải thích khái quát hiện tượng
thập tự như sau: Triết lý Dịch cho rằng, Bất cứ sự vật gì cũng có một thể mà
hai mặt, đó là nói sự biến hóa tương đối chớ không phải phân lập tương đối, âm
dương tương phản tương thành chứ không phải mâu thuẫn, hủy diệt. Dịch nói: Đạo
cùng đi mà chẳng chống nhau, vạn vật nuôi nhau mà chẳng hại nhau. “Đạo Tịnh
hành nhi bất tương bội, vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại”.
Thập tự là tiêu biểu cho không thời hiệp nhứt
để phát sanh hiện tượng mới, nhưng trong lúc phát sanh ra thể mới thì những
hình thức cũ bị đào thải hủy diệt, vì nó không còn hợp thời, hợp cảnh và trình
độ tiến hóa của loài người. Vì vậy nên cơ sáng tạo và hủy diệt luôn luôn đi đôi
với nhau.
Như chúng ta đã biết Trái Đất chúng ta đang
sống, gần đây xảy ra nhiều tai họa không lường. Thiên tai, địa ách, nhân họa đã
diễn ra hằng ngày khắp mặt địa cầu, đó là điềm xấu (hung), đồng thời cũng cảnh
báo cho loài người biết: Sống không có nhân nghĩa đạo đức sẽ dẫn đến hậu quả
chết chóc, bệnh tật, đói khát và giặc giã…
Như trên đã nói: Bất cứ sự vật nào cũng có
hai mặt, vậy mặt tốt của thập tự là gì?
Nay quan sát các hành tinh trong thập tự mà
giải thích may ra giúp ích phần nào trong công trình hiểu biết của học giả.
Trong 8 hành tinh trong Đại Thập Tự giá ta
thấy có 4 hành tinh trực chiếu địa cầu là: Mộc Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh và Thiên Vương Tinh, còn các hành tinh kia ở
xa nên ảnh hưởng của nó chỉ gián tiếp mà thôi.
Theo lý thuyết ngũ hành thì mỗi hành tinh có
tính chất đặc biệt của nó như:
- Mộc Tinh chủ ư nhân, đối cới con người là
tạng can, đối cới giới cấm là Bất Sát Sanh.
- Kim Tinh chủ ư nghĩa, đối với người là tạng
Phế, với giới cấm là Bất Du Đạo.
- Hỏa Tinh chủ ư Lễ, đối với người là tạng
Tâm, với giới cấm là Bất Tà Dâm.
- Thủy Tinh chủ ư trí, đối với người là tạng
Thận, với giới cấm là Bất Ẩm Tửu.
- Thổ Tinh chủ ư Tín, đối với người là tạng
Tỳ, với giới cấm là Bất Vọng Ngữ.
Sự tương liên giữa ngũ hành, con người và
giới cấm rất chặt chẽ.
Thiên văn học sau này kể thêm ba hành tinh
nữa của Thái Dương hệ và lấy tên của các vị Thần trong thần thoại Hy Lạp mà
gọi: Hành tinh thứ 7 là Thiên Vương Tinh (Uranus) thần của Bầu Trời, thứ 8 là
Hải Vương Tinh (Neptune) Thần của biển cả, thứ chín là Diêm Vương Tinh (Pluton)
thần của cõi người chết.
Quan sát trên thập tự giá ta thấy có 4 hành
tinh trực chiếu ánh sáng xuống địa cầu đó là: Mộc Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh và
Thiên Vương Tinh.
Thiên Vương Tinh chỉ cho cao và đẹp của bầu
trời, ta vẫn dùng chữ thiên văn là vẻ đẹp của bầu trời. Cao và đẹp là hiệu quả
của Nhạc, Nhạc nâng cao và làm đẹp tâm hồn của người. Đức Khổng Tử đã dạy: Nhạc
dã giả, động ư nội dã giả … Nhạc khả dĩ thiện dân tâm, kỳ cảm nhân tâm, kỳ di
phong dịch tục. Dịch: (Nhạc tác động vào bên trong tâm hồn người, … Nhạc có thể
làm cho lòng dân trở nên thiện hảo, cảm hóa lòng người sâu xa, làm thay đổi
phong tục con người). Vì vậy Thiên Vương Tinh chủ về Nhạc.
Vậy 4 hành tinh trong thập tự giá là: Mộc
Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh và Thiên Vương Tinh có ảnh hưởng với bốn đức Nhân,
Nghĩa, Lễ, Nhạc. Đức Khổng Tử đã giảng rõ rằng: Các chân lý Dịch cốt chỉ dẫn
cho mọi người nhận thức được rằng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Nhạc là các đức hạnh giúp
xây dựng cho con người xứng đáng là người. Ngài nói: “Đạt hồ tính tình chi lý,
thông hồ vật loại chi biến, tri u minh chi cố, đổ du khí chi nguyên, nhược thử
tắc khả vị thành nhân. Ký tri thiên đạo hành thân dĩ nhân nghĩa, sức thân dĩ Lễ
Nhạc, phù nhân nghĩa lễ nhạc thành nhân chi hạnh dã”. Dịch: Đạt được chân lý về
tánh hình, hiểu được sự biến hóa thế nào mà tạo nên loài người khác nhau, biết
được có các sự kiện cõi u, cõi minh, rõ được nguồn gốc của linh hồn con người,
được như thế có thể gọi là thành nhân. Bởi biết được đạo Trời như thế mới đem
thân theo Nhân nghĩa, làm đẹp thân bằng lễ nhạc nên Nhân Nghĩa lễ nhạc là đức
hạnh của bậc Thánh nhân.
Hiện tượng “Thập Tự Giá” đối với Việt Nam là điều tốt
lành có thể suy ra các hiệu quả như sau:
1. Đại Thập Tự giá là điềm cảnh báo cho loài
người biết: Đã đến lúc thay vỏ địa cầu, thay bầu trái đất, vạn vật cần đổi mới
để thích nghi với nền văn minh đạo đức tinh thần. Bốn yếu tố đổi mới là Nhân,
Nghĩa, Lễ, Nhạc.
2. Con người phải cần tìm hiểu lẽ sống bằng thần
khí, từ vũ trụ vật, tiến lên vũ trụ khí và vũ trụ hồn, lập chí theo nhân nghĩa
đạo đức để xứng đáng là người mới, giống dân mới.
3. Đối với nước Việt Nam có thể suy thêm một hiệu quả
nữa: Đầu chu kỳ thập tự trước tức là năm 111 trước Tây Lịch, nước ta bị đế quốc
Hán xâm lược đô hộ, từ đó đến nay dân tộc ta chịu đựng mãi cảnh bĩ, hết khốn
đốn này đến tai họa khác. Ngày nay chu kỳ ấy chấm dứt, vì đất nước trong hai
ngàn năm đã chịu quá nhiều cảnh bĩ rồi, từ đây sẽ được hưởng cảnh Thái, theo lẽ
Bĩ Cực Thái Lai.
“Vô bình bất bí, vô vãng bất phục” nghĩa là
không có gì bình ổn mãi mà không nghiêng đổ, không có gì đi mãi mà không trở
lại.
Đất nước Việt Nam
có đủ điều kiện thực hiện bốn đức: Nhân-Nghĩa-Lễ-Nhạc nhờ có Trời đến lập nên
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và Ngài đã điểm Đạo cho Việt Nam:
Hảo nam bang, hảo nam bang,
Tiểu quốc tảo khai hội Niết
Bàn,
Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại
Đạo,
Hảo phùng Ngọc-Đế ngự trần
gian.
Thi ân tế chúng thiên tai
tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn
đại an.
Chí bửu nhơn sinh vô giá
định.
Năng tri giác thế sắc cao
ban.
HẠNH ĐƯỜNG
Ý NGHĨA CỦA SỰ CẦU NGUYỆN
A. ĐỊNH NGHĨA:
Cầu nguyện: Cầu là xin, nguyện là ước muốn.
Cầu nguyện là dùng cái lòng thành hay tư-tưởng của con người cảm thông với các
Đấng vô hình, để cầu xin một việc gì mà mình mong muốn.
Đọc kinh, không phải đọc như một bài học
thuộc lòng, đọc những lời cầu nguyện như những câu sáo ngữ. Lời cầu nguyện thật
lòng có rung động thật sự với Thần-Linh, trong đó thần trí con người được giao
hòa với Thượng-Đế.
Trạng thái cầu nguyện đó, không có tinh chất
trí-thức nó còn cao xa hơn đối với tư-tưởng các nhà triết-học và thông-thái. Nó
không cần đòi hỏi những lý thuyết trong sách vở. Đó là một trực giác, trực cảm
giữa tâm hồn con người với Đấng Thần-Linh.
Thần-Linh rất dễ tiếp xúc, dễ thân cận với
những ai có lòng trong sạch và hiến dâng. Câu kinh:
“ĐẠO GỐC BỞI LÒNG THÀNH TÍN HIỆP”
Nghĩa là lòng tín, có cảm có hiệp với
Thần-Linh thì mới có Ứng. Có Ứng thì mới thấy linh diệu. Trái lại các Đấng
Thiêng-Liêng sẽ xa rời những kẻ chỉ biết cầu nguyện theo tham vọng riêng tư,
quyền lợi ích-kỷ và tinh-thần đấu-tranh phe đảng, không có lòng vị-tha vì mọi
người, vì Tổ-Quốc Xã-hội.
B. Muốn thế giới hòa bình, Càn-Khôn an tịnh,
mỗi người phải tin THƯỢNG-ĐẾ. Tìm lại cái chơn Tâm linh Tánh, cái thần huệ diệu
minh mà từ bao đời đã bị vật dục phủ che, vô minh bao bít, đánh mất đức-tin vào
mình và Thượng-Đế.
Con người đã vong thân mất thần, nên hồn xiêu
phách lạc. Thế giới hỗn loạn là nguyên nhân, bởi tại con người xa Tôn-Giáo đạo
đức. Hòa bình không thể thực hiện được, nếu không có đức tin vào Thượng-Đế. Mỗi
người phải làm cho Tâm mình hòa-bình, thì thế-giới mới hòa-bình. Không nên chỉ
biết cầu khấn suông, muốn chống kẻ thù bất chính, ngoài sức mạnh khí-giới và
chánh-trị, còn có cái cao siêu hơn mới thắng được. Đó là ân huệ thiêng-liêng
của Trời Phật ban cho.
Bắt nguồn từ đức-tin Tôn-giáo một phép lạ độc
nhất, tức là sự cầu nguyện. Đức-tin có một quyền-năng mãnh liệt, làm thay đổi
cục diện thế-giới, nếu triệu triệu người có chí thành cầu nguyện, thì Thượng-Đế
sẽ ban cho một nền hòa-binh vĩnh cửu. Lòng chí thành và tình thương yêu tràn
ngập trong lời cầu nguyện, sẽ tạo sự thân ái giữa các nước và toàn thể nhân
loại.
Có điều ta nên nhớ là: Sức mạnh hữu hình và
sức mạnh vô hình, luôn luôn song tiến thì mới đạt được kết-quả tốt. Thời kỳ
này, không phải lời cầu nguyện phản bội ta, mà chính con người đã ruồng bỏ lời
cầu nguyện, hoặc có cầu nguyện cũng không thành tâm. Vì tư-tưởng bất chính,
ý-thức mơ hồ, mất lòng thương yêu chân thật và trí sáng-suốt.
Tóm lại, lợi-ích của sự cầu nguyện là căn cứ
vào lòng thành con người để thông cảm với Thần-Linh. Lòng thành không căn cứ
vào trí-thức mà căn cứ vào trực giác. Có lòng thành mà không có đức-tin cũng
đều vô hiệu. Vậy sự cầu nguyện chân thành có những lợi ích như sau:
1. Cốt để thâu
phóng Tâm:
Làm cho tâm-trí nghỉ ngơi không xao động,
định lòng tịnh trí.
- ĐỊNH lòng để
tránh thân giao động.
- TỊNH trí hầu
mong Đạo đạt thành.
Khi Tâm lành phát hiện, khởi lòng bác ái từ
bi ví như mặt trăng chiếu xuống nước, gặp nước yên lặng sẽ thấy rõ bóng trăng.
Lòng thanh tịnh sẽ hứng được ân điển Thần Tiên giao hòa làm cho tâm-hồn trong
sáng, tiến lần đến chỗ phát huệ. Đó là cầu xin thiêng-liêng ban cho ánh sáng
trí huệ.
2. Soi lại
lòng mình:
Kiểm điểm lại những thói hư tật xấu, ta nhìn
lên Thiên-Nhãn, Thiên-Nhãn ngó lại ta, đó là phép dạy ta hướng nội Tâm để tìm
biết lại nguồn gốc Tánh-mạng của mình, tìm lại căn kiếp của mình.
Khi cúng kinh, nhìn Thiên-Nhãn nhiều lần lòng
chí thành cầu nguyện mạnh mẽ, sẽ trấn át được những tính kiêu-ngạo, xấc láo, tự
cao, tự đại v.v…
Muốn thấy lòng mình và tư tưởng của mình, thì
người tu hành phải biết ý nghĩa của việc thờ Thiên-Nhãn và phải nhớ câu thi mà
tôi định nghĩa. Bài Thánh-ngôn của THẦY giáng cơ dạy về ý nghĩa Thiên-Nhãn như
sau:
Nhãn thị chủ
Tâm,
Lưỡng quan chủ
tể,
Quan thị Thần.
Thần thị Thiên
Thiên dã ngã
giã.
DỊCH:
Con Mắt là chủ
cái lòng,
Lại là Ông-Chủ
biết trong thấy ngoài.
Nghe,Thấy,
biết, Thần không hai,
Thần là Trời
đó có ngoài người đâu.
Xét xem mọi lẽ
cao sâu.
Trời, Ta hiệp
nhất nhiệm mầu công phu.
Và cũng cần phải tìm hiểu khi ĐỨC NGÔ vẽ
Thiên-Nhãn thờ Trời Ngài có viết bài thi nói lên cái uy-quyền của THƯỢNG-ĐẾ như
sau:
Mắt Trời
luân-chuyển xem người thế,
Tru diệt quân
hung giúp kẻ hiền.
Oai sấm phép
Thần trừ xảo kế.
Chẳng dung một
mảy phạt liên miên.
3. Tìm hiểu
Vũ-Trụ:
Khi nhìn lên bàn thờ THƯỢNG-ĐẾ hay quả
Càn-Khôn, Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần, vận hành để sanh sanh hóa hóa, vừa ẩn vừa
hiện, vừa hủy diệt vừa bảo tồn. Xoay trở ngược xuôi dịch chuyển vô cùng tận,
không biết đâu là manh mối.
Cảm thấy cơ Trời vận-chuyển, ta sanh lòng
kính phục nên phải ăn ở thuận tùng Thiên-Lý lưu hành, hầu đạt cơ tấn-hóa mà
hiệp nhất với Trời. (Thuận Thiên dã tồn, nghịch Thiên dã vong).
Nhìn lên quả Càn-Khôn, ta thấy ta một chúng
sanh trong cõi hồng trần, nằm trong khối Vũ-trụ bao la man mác do Thượng-Đế làm
chủ cai quản. Khi ấy lòng tự đắc tự mãn, sẽ dập tắt và ta tự thấy mình là một
phần tử rất nhỏ, chẳng khác nào hạt cát trong bãi sa mạc.
Trời đất bao la là đại vũ-trụ, con người là
tiểu Vũ-trụ. Con người là một Tài trong ba Tài, Tạo-Hóa là lò sản xuất ra muôn
vật. Người với Trời có thể chất như nhau, Trời có gì thì người có nấy. Nếu
người gia công tu hành có ngày sẽ hiệp nhất với Trời. Thượng-Đế là một khối
Đại-Linh-Quang, con người là Tiểu-Linh-Quang. Khi hồn lìa khỏi xác
Tiểu-Linh-Quang sẽ về khối Đại-Linh-Quang vậy.
4. Tụng kinh
để tìm lý:
Đọc kinh phải phân tích tìm ra yếu lý của bài
kinh. Nghĩa của kinh có 3 dạng, dạng nghĩa đen, dạng nghĩa bóng và dạng theo
chơn-pháp. Ví dụ: Chữ khai kinh nghĩa đen là mở kinh ra mà tụng đọc, nếu hiểu
theo nghĩa bóng là khai mở kinh mạch trong người cho thông suốt. Còn theo nghĩa
chơn pháp thì tu luyện mở mạch Nhâm, mạch Đốc và chuyển Pháp-luân thành vòng
Tiểu-Châu-Thiên, tức là âm dương giao hiệp.
Đọc kinh để phân biệt điều thiện điều ác, tư
tưởng hành động, lời nói phải giữ đúng theo lời kinh dạy. Trời Phật không phải
thiếu kinh cần ta tụng đọc để nghe, mà chính ta đọc cho ta nghe hiểu và làm
theo lời kinh dạy. Đọc nhiều biến, quỳ nhiều hương, lạy mòn trán mà không sửa
đổi được tánh hư tật xấy, làm những điều phi nhân phi nghĩa, trái luân thường
đạo-lý mà cứ tụng đọc hoài mất thì giờ vô ích. Sách xưa có dạy: “Khán tận Di-Đà
kinh, đọc triệt Đại-Bi chú, chưởng qua đắc đắc qua, chưởng đậu đắc đậu. Thiên
võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Nghĩa là xem hết kinh Di-Đà, đọc suốt chú
Đại-Bi. Trồng dưa đặng dưa, trộng đậu đặng đậu. Lưới Trời to lớn vĩ đại, thưa
mà chẳng lọt mảy hào ly.
Về phần cầu nguyện Trời Phật phù hộ cho
gia-đình bình an, làm ăn giàu có thi cử đỗ đạt, mua may bán đắc v.v… Rồi đem lễ
vật chồng chất đầy bàn, đó là đặt điều kiện mua bán với Trời Phật. Các đấng
thiêng-liêng đâu có ăn của đút lót hoặc a-dua, xu nịnh như người trần tục.
Lòng cầu nguyện chân chính, phải thể hiện qua
lễ phẩm trong sạch Hương, Hoa, Rượu, Trà tinh-khiết thơm tho. Quả chín
ngọt-ngào, để chứng minh rằng mình có lòng thành ngưỡng vọng.
Cầu nguyện có hiệu lực là khi nào, mình để
tâm làm việc gì ích quốc lợi Đạo, vì tình thương và sự sống của mọi người. Ví
dụ: Nguyện xá thân hành Đạo, Nguyện bỏ dữ về lành, Nguyện cứu khổ phò nguy,
Nguyện giúp đời độ chúng xây dựng cuộc sống an lành. Nguyện ăn-năn sám hối trừ
sạch tam-nghiệp vô minh. Nguyện ơn-trên bố hóa dìu dắt tu học cho rõ thông chơn
lý.
Nói chung là tùy nhân duyên, hoàn cảnh, trình
độ và căn kiếp của mỗi người mà phát tâm cầu nguyện. Ý hướng cầu nguyện tuy đa
dạng, nhưng tựu trung chỉ nằm trọn trong bài cầu ngũ nguyện mà thôi.
NGŨ NGUYỆN
TƯƠNG QUAN VỚI NGŨ GIỚI CẤM
1. Lời cầu nguyện thứ nhất:
“Nhứt nguyện Đại-Đạo hoằng khai”
Muốn cho lời cầu nguyện này được ứng hiện và
có hiệu lực, ta nên biết Đại-Đạo là lẽ thật, tình thương yêu là sự hằng sống.
Hưởng ứng và phục tùng theo chân lý Đại Đạo nên ta phải ăn chay, tỏ lòng thương
yêu mạng sống của loài vật. Vì vậy phải giữ giới cấm thứ nhất: BẤT SÁT SANH.
Không được giết hại mạng sống của loài vật,
làm cho chúng nó đau đớn rên xiết và chia lìa tình vợ chồng, cha mẹ và con cái
của chúng nó.
Muốn giữ giới cấm sát sanh ta phải ăn chay,
ăn chay nghĩa là dùng Lê-hoát và ngũ cốc mà thôi. Tại sao kẻ học Đạo phải ăn chay?
Khoa học lấy trí thức làm căn bản suy nghĩ,
khảo cứu vật chất bên ngoài. Chung cuộc khoa học thu được kết quả vật chất,
được bồi bổ vào đời sống hiện tại. Còn Đạo Học thì có mục đích thâm viễn hơn là
giải thoát kiếp luân hồi, đặng vào cõi chẳng sanh chẳng già.
Muốn đạt được mục đích ấy, học giả phải thu
nhập cả tánh mạng, luyện thành một khối tinh thần sáng suốt gọi là chơn thần.
Nó phải nhẹ nhàng hơn không khí mới vượt ra ngoài Càn-Khôn đặng. Tại sao?
Bởi vì không-khí có điển quang, nếu người ta
ăn mặn mà luyện Đạo, đến khi xuất thần thì chơn Thần ấy còn trược khí lẫn lộn,
mà trược khí vốn là vật chất hay tiếp điển quang. (Bon conducteur d’
électricité) khi ấy nó chưa ra khỏi lằn khí đã bị sét đánh tiêu diệt mất rồi.
Đó là một lẽ người học Đạo phải ăn chay.
Lẽ thứ hai, theo luật hấp dẫn nếu chơn thần
còn bị trược nhiễm, khi xuất ngoại phải bị hấp lực của cõi trần vật chất giam hãm
trong vòng sanh tử, nên phải chịu trong luật luân hồi.
Còn lẽ thứ ba, ăn chay là phương pháp thái
thực dưỡng sinh, kiện tỳ dưỡng vị giữ vệ sinh sạch sẽ. Sạch sẽ nói đây phải
hiểu rộng, là chẳng những giữ gìn sạch sẽ bên ngoài mà còn phải sạch sẽ bên
trong nữa.
Ăn chay toàn đồ thảo mộc thọ sự sống nơi ánh
Thái-Dương nhẹ nhàng dễ tiêu hóa, mà tiêu hóa được dễ dàng tức là giữ gìn sạch
sẽ bên trong tạng phủ. Vả lại người ta có hai thức ăn để bổ dưỡng thân thể là
vật chất thực và huyền vi thực. Vật chất thực là ngũ cốc, rau, trái cây, khoai
củ do miệng vào tỳ vị. Còn huyền vi thực là thanh khí ở trong Trời đất, nhờ hô
hấp tiếp nạp vào thân thể.
Nói tỷ như, mỗi ngày chúng ta cần 06 cân vật
thực để bổ dưỡng thân thể. Trong 6 cân vật thực đó chia ra 03 cân huyền vi thực
và 03 cân vật chất thực. Ấy vậy, nếu chúng ta thêm huyền-vi thực, thì lần lần
bớt vật-chất thực. Càng bớt bên kia càng thêm bên nọ. Chung cuộc mỗi ngày chúng
ta cũng có đủ 06 cân vật thực để bổ dưỡng thân thể. Công phu ấy tiến lên nữa,
về sau quen rồi chúng ta có thể sống huyền-vi thực được. Đó là mục đích cứu
cánh của phép tu hành. Nhưng chúng ta là kẻ ở thế gian đã quen dùng vật chất để
nuôi sống, nay thoạt nhiên đổi món ăn cấp kỳ, e tạng phủ chưa quen mà phải sanh
rối loạn.
Bởi thế, nên người ăn chay phải tập lần, ban
đầu ăn một tháng 6 ngày, rồi đến 10 ngày sau sẽ trường trai. Tạo cho tỳ vị quen
vật ăn nhẹ-nhàng, rồi sau mới có thể tuyệt thực được. Đó là một ý nghĩa cứu
cánh, người thường như chúng ta khó có thể làm được, khuyên ai chớ nên dục tốc.
2. Lời cầu
nguyện thứ nhì:
“Nhì nguyện phổ độ chúng sanh”
Nghĩa là phô bày rộng rãi chân lý Đại Đạo, để
độ dẫn chúng sanh tiến hóa. Muốn được vậy, sự sống giữa nhau phải có tình có
nghĩa. Muốn giữ trọn tình nghĩa thì phải giữ giới cấm thứ hai là BẤT DU ĐẠO. Giới cấm bất du đạo là: Cấm
trộm cướp, lấy ngang, lường gạt của người hoặc vay mượn không trả, hoặc chứa đồ
gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy. Để ý hại người mà
lợi cho mình, cờ bạc gian lận.
Thánh-Ngôn dạy: Ôi! THẦY sanh các con THẦY thương yêu các con, THẦY cho các con đến thế
gian này, với một Thánh Thể thiêng liêng, y như hình thể của THẦY. Không ăn mà
sống, không mặc mà lành. Các con không chịu lại nghe lời cám dỗ luyến ái hồng
trần, ăn cho phải bị đày, dâm cho phải bị đọa rồi các con phải chịu dưới nạn áo
cơm.
LỢI: THẦY dành để
cho các con chung hưởng nhưng vì lòng tham, đứa mạnh giựt nhiều đứa yếu thế
phải chịu kém hơn.
QUYỀN: THẦY ban cho
các con y như THẦY đã ban cho Thần, Thánh, Tiên, Phật. Để các con có đủ phương
tiện kiềm chế lẫn nhau, đặng giữ vẹn Thánh-Thể cho THẦY. Thế mà cái quyền ấy lại
phải thành một món lợi khí, buộc trói các con trong vòng tội lỗi. Ôi! Cái thất
vọng của THẦY rất nên đau đớn các con có hiểu vì sao, nhơn sanh có lòng tham
lam chăng?
Thì cũng chỉ
vì muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi của mình. Vả lại người đời cần
nhất là cơm với áo, ai cũng muốn có nhiều kẻ phục tùng, không chi bằng nắm chặt
quyền phân phát áo cơm. Phải dùng đủ mưu chước, quỷ quyệt thâu đoạt lợi lộc thế
quyền.
Vì vậy, mà đời
trở nên trường hổn độn tranh đấu, giựt giành mạnh được yếu thua, mất hẳn công
bình thiên nhiên của Tạo-Hóa. Vậy các con phải biết rằng: Tham lam vào Tâm, Tâm
hết đạo đức, tham lam vào nhà, nhà hết chánh giáo, tham lam vào nước, nước hết chơn
trị, tham lam rộng khắp thế giới, thế giới hết Thánh Thần. Lòng tham lam có thể
dục các con lỗi Đạo với THẦY.
3. Lời cầu
nguyện thứ ba:
“Tam nguyện xá tội đệ-tử”
Đệ-tử nào cũng phải biết rằng: Mình là con người
thọ nhận hai thể chất âm dương, tức là tinh cha huyết mẹ mà sản sanh ra. Từ cõi
dục giới bào thai ra hình, nên không ai là không phạm vào tình dục cũng là cái
pháp để luyện thành phàm thai.
Pháp này không ai truyền mà tự nhiên lớn lên
17, 18 tuổi là ai cũng biết. Một Đạo-Nhơn đã nói: Ai sanh ra chỗ nào thì cũng
chết vào chỗ ấy. Chết vì dâm, làm cho tinh khô huyết cạn, thần trí lu mờ. Đệ tử
nào muốn ơn trên xá tội phải giữ giới CẤM
TÀ DÂM.
Cấm bất tà dâm nghĩa là cấm lấy vợ người, thả
theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường hoặc thấy sắc dậy lòng tà,
hoặc lấy lời hoa nguyệt gieo tình. (Vợ Chồng không gọi tà dâm).
Thánh ngôn THẦY dạy: Vì sao tà dâm trọng
tội? Nguyên xác thân con người tuy mắt phàm xem như một, tựu trung chất chứa
vàn vạn, muôn muôn sinh vật. Sinh vật ấy cấu kết nhau thành tế bào. “Formation
des cellules”. Nó có tánh linh, chất dưỡng sanh nó ra là rau cỏ, bông trái và
lúa gạo.
Thử hỏi những
lương vật ấy, nếu chẳng có chất sanh và chẳng hàm chứa sanh lực thì thế nào nó
tươi đặng? Hoặc giả nếu nó có khô rũ thì nó phải chết, mà các con có ăn vật khô
héo bao giờ.
Còn dùng lửa
nấu bất quá tẩy trược mà thôi, kỳ thật sanh vật nấu chưa hề chết. Vật ăn vào tỳ
vị tiêu hóa ra khí, khí biến ra huyết, nó có thể hườn thành nhơn hình. Vì vậy,
nên nó có cơ sống chết của chúng sanh.
Một giọt máu
là một khối chơn linh, nếu các con dâm quá độ, tức là sát hại nhiều chơn linh.
Khi các con thoát xác nó đến nghiệt cảnh đài, mà kiện các con chẳng hề chối tội
đặng. Vậy các con phải giữ gìn giới cấm này cho lắm.
4. Lời nguyện
thứ tư:
“Tứ nguyện thiên hạ thái bình”
Muốn thiên hạ hưởng cảnh thái bình, thì tâm
trí mỗi người phải được hòa bình. Nghĩa là phải giữ Tâm thanh thản, bình tĩnh
thần khí lưu thông, kinh mạch thông suốt, âm dương trong cơ thể được quân bình.
Không bị kích thích bởi đồ ăn thức uống, cao lương mỹ vị nhất là các chất rượu
thịt. Nó làm đảo lộn khí huyết trong thân thể. Mà hễ âm dương trong người hoặc
hàn, hoặc nhiệt thái quá, thì tâm trí con người xáo trộn làm cho loạn thần mất
trí, hỗn loạn mê muội. Vì vậy, nên phải giữ giới cấm thứ tư là BẤT TỬU NHỤC.
Cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ rối loạn
tâm thần làm cho náo động làng xóm. Hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.
Thánh ngôn THẦY dạy: Vì sao phải giới tửu?
Thân thể con
người là một khối chơn linh hiệp thành, chơn linh ấy hằng sống. Ngũ tạng lục
phủ cũng là khối sinh vật tạo nên. Phận sự của chúng nó làm hoặc hiểu biết hoặc
không đều tùy lịnh THẦY phán đoán. Vậy THẦY lấy hình chất xác phàm để giảng
dạy.
Hình chất con
người cũng như hình chất thú, phải ăn uống mới sống được. Rượu vào tỳ vị chạy
khắp ngũ tạng lục phủ. Trái tim là chủ động của bộ máy sanh sống, mà trái tim
bị rượu xâm nhập, khiến cho nó rung động quá mức thiên nhiên đã định. Thôi thúc
huyết mạch vận hành một cách mau lẹ, sanh khí nơi phổi không đủ ngày giờ nhuận
huyết, rồi trược huyết thâm nhập trong thân thể, truyền tống chất độc vào trong
những sanh vật.
Mỗi khối sinh
vật ăn phải bịnh càng ngày càng tăng thêm lên, rốt cuộc hết sanh lực cốt tủy
lần lần phải chết. Thân thể tự nhiên chết theo, nhiều kẻ bị liệt hết thân hình
cũng vì rượu.
THẦY nói về sự
hại cho phần hồn, chơn Thần là khí chất bao bọc thân thể các con. Trung tim nó
là óc, cửa xuất nhập là mỏ ác chữ gọi là vi hộ (Hộ-Pháp). Hằng đứng gìn giữ các
con đặng giúp cho Tinh hiệp Khí rồi đưa khí đến Chơn-Thần, Tinh-Khí-Thần hiệp
nhứt mới siêu phàm nhập Thánh.
Óc là nguồn
cội của sanh khí mà có cũng vì huyết mạch vận chuyển vô cùng đến đổi tán loạn.
Thế thì Chơn Thần an tịnh thế nào cho đặng, thân thể phải chịu ngây dại trở lại
thú tánh, thú chất. Như vậy thì mất hết nhân phẩm rồi, còn mong chi đến địa vị
Thần Tiên.
Lại nữa trong
buổi loạn thần cửa để trống, tà mị thừa cơ xâm nhập dục các con làm quấy, gây
nên tội tình mà phải chịu nhân quả luân hồi muôn kiếp. Vậy THẦY cấm các con
uống rượu.
5. Lời cầu
nguyện thứ năm:
“Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh”
An ninh là bình an yên ổn, sống an toàn trong
cảnh thanh bình Thánh Đức. Thánh Thất là nhà Thánh nơi thờ Đức Chí Tôn và Thần,
Thánh, Tiên, Phật. Nơi đó coi như Bạch Ngọc Kinh tại thế phải được giữ gìn
trang nghiêm, phong cảnh trang nhã, không khí trong sạch.
Người ở trông coi phải là bậc Thánh Tâm Thánh
Đức, qui giới tinh nghiêm, đạo hạnh đầy đủ để thay mặt cho nhơn sanh, mà thắp
hương cúng tế hầu THẦY và làm những điều lợi sanh ích Đạo. Phần vô vi Thánh
Thất tức là Thánh Tâm của đạo hữu, có cái Thánh Tâm này phải giữ trong sạch
sáng suốt, an ổn thanh tịnh. Muốn được như vậy phải giữ giới cấm thứ năm là BẤT VỌNG NGỮ. Nghĩa là cấm xảo trá, láo
xược gạt gẫm người, khoe mình bày lỗi người. Chuyện quấy nói phải, chuyện phải
thêu dệt ra quấy. Nhạo báng chê bai nói hành kẻ khác, xúi dục người hờn giận,
kiện thưa xa cách. Ăn nói lỗ mãng thô tục chửi rủa người, hủy báng Tôn-Giáo,
nói ra không giữ lời hứa. BẤT VỌNG NGỮ
nghĩa là chẳng đặng nói dối.
Thánh ngôn có dạy: “Nơi thân phàm các con, THẦY cho một chơn linh theo gìn giữ, chơn linh
ấy vốn vô tư đặng phép thông công cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Đấng
trọn lành nơi Ngọc Hư Cung. Nhứt nhứt việc lành dữ đều có ghi, vậy nên một mảy
lông không sai, lành dữ đều có trả.
Lại nữa, chơn
linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải giữ gìn các con mà còn dạy dỗ nữa, đời
thường gọi là lương tâm. Thánh Nhơn xưa nói rằng:
“Khi nhơn tức
khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội” (Hoạch tội ư thiên, vô sở
đáo giã). Nghĩa là khinh thường người tức là khinh thường Tâm mình, tức là
khinh lờn Trời, khinh Trời là đắc tội mà hễ phạm tội với Trời, thì không thể
cầu khẩn vào đâu được.
Như các con
nói dối, điều ấy chưa dối được người mà các con đã dối lương tâm mình rồi, một
lời nói tuy chưa thi hành, song tội tình cũng đồng thế như đã làm. THẦY dặn các
con phải cẩn ngôn cẩn hạnh. Thà các con làm tội mà chịu tội đã đành chẳng hơn nói
tội mà phải chịu trọng hình đồng thể.
ĐẠO LÀM NGƯỜI
Từ xưa nay phần đông lầm tưởng rằng: Đạo Nho
chỉ dạy con người trở nên hiền nhân quân tử, chú trọng phần nhân đạo, chứ không
hướng dẫn tâm linh người ta đến hoàn toàn giải thoát như Phật giáo và Lão giáo,
sự ngộ nhận này là điều đáng tiếc. Xét đến cùng lý thì “Chí thành” của Nho giáo
là phương pháp tiến đến cực điểm tinh hoa, nghĩa là lo hoàn thiện mình rồi giúp
cho mọi người chung quanh mình cũng được hoàn thiện.
Đem so sánh bậc chí thành của Nho Giáo thì
không khác gì bậc chân tu của Lão Giáo và Phật Giáo.
Đức Nhân của Đạo Nho là tình thương yêu bao
trùm cả Trời Đất vạn vật, là đạo sống, nơi nào có sự sống là có đức nhân, nó
giống như Đạo Từ Bi, chúng sanh bình đẳng của Phật, yêu người như yêu mình, xem
kẻ thù là bạn, là đức bác ái của Chúa Ki-Tô. Ở trong Đạo Nho đức Nhân là cao
thượng, là vĩ đại nhất. Đức Khổng Tử nói: “Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại
nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân” nghĩa là người chí sĩ là người có đức nhân,
suốt đời mình sống với đức nhân mà chết cũng vì nhân, không vì sự sống mà làm
mất đức “Nhân”, nếu gặp hoàn cảnh xấu, có lúc phải hy sinh mạng sống của mình
để giữ trọn đức nhân.
Theo quan niệm của Đạo Nho thì con người là
một tài trong tam tài Trời, Đất, Người. (Thiên, Địa, Nhân) con người sống biết
phối thiên, hiệp địa, hòa đồng trong quy luật trật tự của TRời Đất thì mới hanh
lợi và tồn tại. Vì muốn phối thiên hiệp địa nên cổ nhân chế cách lạy để tỏ lòng
cung kính Trời, Đất và Người, suốt đời quy tùng tam bảo. Sách xưa dạy: Ngưỡng
quan ư thiên văn, phủ sát ư địa lý, trung quán ư nhân sự, nghĩa là: ngước lên
xem văn vẻ của Trời, cúi xuống quan sát mạch lý của Đất, để hai tay tại tâm là
quán thông nhân sự, cách lạy là hình thức dạy người ta biết kính trọng và học
hỏi tìm biết lý tam tài, chứ không phải mê tín, hay cầu xin lợi lộc gì ở Trời
Phật.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là Đạo Cao Đài
dựa vào luân lý của Nho giáo để hoán chuyển đời hổn loạn trở lại hòa bình chân,
thiện, mỹ. Theo sách Đại Học thì Đức Khổng Thánh đã có thực hiện một chương
trình giáo lý gồm tam cương lãnh và bát điều mục trước thế kỷ chúa Ki-Tô 551.
Trải đến thế kỷ 20 này, nước Việt Nam may duyên Đức Thượng Đế đến lập
nền Đại Đạo với tôn chỉ: Tam Giáo quy nguyên, ngũ chi hiệp nhất. Tam Giáo gồm
có Nho, Lão, Phật. Ngũ Chi gồm có: Nhân Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo,
Phật Đạo. Mục đích: Thân vạn loại, hòa vạn chủng, nhất vạn giáo, cầu mong đem
lại hòa bình hạnh phúc cho nhân loại, và hướng dẫn linh hồn con người đến đỉnh
cao hoàn thiện giải thoát.
Trước tiên Thượng Đế dùng Nho Tông để chuyển
thế, Đức Thầy muốn dùng Đạo Nho tối cổ của tổ tiên Việt Nam để lại, tức là nền
văn hiến trên năm ngàn năm đã lưu truyền.
Thiết tưởng số chức sắc trong Thánh Thể của
Thầy lập kỳ ba nầy gồm có nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, thất thập
nhị hiền, tam thiên đồ đệ, đem so sánh số lượng môn đồ của Đức Khổng Tử thì
không khác. Các nghi thức tôn sùng, thờ phượng hiện tượng nơi đền Thánh Cao Đài
chẳng ngoài chánh thể của Nho tông.
Tuy vậy, mỗi người phải nhờ sự học thức mới
mở mang trí thức, song phải có một phần tâm thức của mình đào tạo là: tự hạ học
nhi thượng đạt, mới có thể mở rộng tiến hóa, mặc dù có học thức, trí thức,
nhưng phải có óc kinh nghiệm mới đạt thành mục đích.
Sách Trung Dung có nói: Quân tử chi đạo, thí như hành
viễn tất tự nhi, thí như đăng cao tất tự ty, nghĩa là: người quân tử
học đạo phải do theo trình tự mà tiến hóa, ví như người đi đường phải từ chỗ
gần đến chỗ xa, từ chỗ thấp mới đến chỗ cao.
Nay ta muốn lần dò Thánh Đạo, học tập để tu
tâm sửa tính, học Đạo làm người, trước hết phải hiểu bí quyết nhân đạo.
BÍ QUYẾT NHÂN ĐẠO
BÍ QUYẾT NHÂN
ĐẠO là
phương châm kín nhiệm trong đạo làm người, phương châm ấy là chi? Tức là
Thiên-Lý hay Đạo-Trời mà chúng ta lấy đó làm quy tắc cho Đạo người. Nói rõ hơn
là chúng ta lấy Đạo Trời để làm khuôn un đúc tánh người. Thế mà Đạo Trời ra
sao? Và làm thế nào gọi là bắt chước đạo Trời để tu đạo Người? Xin xem 4 đề mục
sau đây.
1. Học Đạo.
2. Hành Đạo.
3. Giáo Thuyết.
4. Nhân Đạo chương trình.
1. Học Đạo: Học Đạo tức là tìm hiểu Đạo
tự nhiên Trời Đất để noi theo. Nguyên tự đời thượng cổ đã có lắm nhà Bác học bỏ
cả cuộc đời phú quý vinh hoa, đem thân ở ẩn trong non xanh tịch mịch, hoặc
trong giáo đường thâm nghiêm và gia công tìm một lẽ sống chân thật, an vui theo
Đạo khi công viên quả mãn. Các Đấng ấy, lại đem sở đắc của mình mà truyền dạy
hậu thế, người sau tiếp tục truyền thọ lẫn nhau, hoặc truyền khẩu hoặc phổ
thông kinh sách. Nhờ vậy mà giáo pháp hãy còn lưu lại đến ngày nay. Chúng ta
muốn học Đạo thì cũng nương nhờ cái tàng thơ quý giá ấy. Vậy mời quý bạn cùng
chúng tôi theo gót cổ nhân.
ĐẠO RA SAO?
Đức Lão Tử nói: “Có một vật tự nó sanh, nó mờ mịt tịch chiếu trong cõi thái hư. Một
mình độc lập mà không nghiêng đổ, lưu hành khắp nơi mà chẳng mệt nhọc mòn mõi.
Vật ấy khá gọi là nguồn sanh Trời Đất. Ta chẳng biết tên nó song chỉ mượn gọi
là Đạo” (Hữu nhất vật hỗn thành, Tiên Thiên địa sanh, tịch hề, lưu hề, độc
lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi Thiên Địa mẫu, ngô bất tri kỳ
danh tự chi vi Đạo).
Vậy Đạo là vô vi trừu tượng, vô danh vô sắc,
cho nên có câu nói rằng: Ta suy diễn đến cùng cực thì thấy Đạo, lúc nào cũng có
MỘT. Ta trông lên phía trên, thì không thấy phản chiếu ánh sáng, xem xuống phía
dưới thì không thấy ẩn khuất bóng tối lâng lâng trong sáng hồn nhiên giản dị,
mà Đạo định Càn Khôn sinh vạn vật. Cho nên Thánh Ngôn nói: “Khi chưa có Trời
Đất, khí hư vô sanh ra có một THẦY và ngôi THẦY là Thái Cực, khi tỏ lên rồi,
Thái-Cực một mình yên tịnh mà hễ tịnh thì sanh khí âm.
Tịnh hết mức rồi động, mà hễ động thì
Thái-Cực sanh khí dương. Đó là Chỗ nói Thái-Cực sanh lưỡng nghi. Âm Dương vốn có
tánh cương nhu (cứng mềm) tương khắc, cho nên hễ gặp nhau thì âm dương xô xát
mà thành cơ hỗn độn. Sách Dịch chép rằng: Trong lúc âm dương hỗn độn, khí nhẹ
bay lên cao thành Trời, khí nặng chìm xuống thành đất.
Trời Đất đã có định rồi, từ đó về sau trong
khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí âm khí dương lại điều hòa mà sanh thành
vạn vật. Sự sanh thành vạn vật, Kinh Dịch nói: Trời Đất ngui ngút mà hóa thuần
muôn loài, đến lượt muôn loài trưởng thành, thì giống đực giống cái giao cấu mà
sản sanh thêm ra mãi mãi. (Thiên Địa Nhân huân, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu
tinh vạn vật hóa sanh). Cơ sanh hóa như thế cho nên không cùng tận.
SỰ TƯƠNG LIÊN CỦA ĐẠO VỚI TRỜI ĐẤT CÙNG VẠN
VẬT
Trời Đất và vạn vật theo đạo mà sanh, rồi
theo Đạo mà sống và tấn hóa cho đến chỗ tuyệt mỹ tuyệt diệu. Kinh nói: Trời
đặng một (tức Đạo) thì trong sáng, Đất đặng một thì bền vững, Thần đặng một thì
linh thiêng, muôn loài đặng một sống và sanh hóa thêm lên. Đến như số 1 nói
đây, nếu Trời chẳng đặng nó để làm cơ sở trong sáng thì Trời phải tối tăm. Đất
chẳng đặng một để làm cơ sở bền vững thì đất phải sụp đổ. Thần chẳng đặng nó để
làm cơ sở linh thiêng, thì Thần phải kiệt. Muôn loài chẳng đặng nó để làm cơ sở
sanh hóa và tấn hóa, thì muôn loài phải tiêu diệt. Đạo mật thiết với Trời Đất
và vạn vật như thế, còn Đạo đối người ra sao.
Loài người đối với Đạo còn mật thiết hơn nữa,
vì Vũ-Trụ có những gì, thì châu thân người cũng có điều ấy. Cho nên cổ nhân
nói: Châu thân người là bầu Trời Đất nhỏ (Nhơn thân tiểu thiên địa) cũng có
sách nói: “Vạn vật giai bị ư ngã, phản
thân nhi thành, lạc mạc đại yên!”
BS Thọ dịch:
“Cả vạn vật ở
trong ta đó,
Quay về ta, ta
cố tín thành;
Kiện toàn hoàn
thiện tinh anh,
Vui nào sánh
được, cái mình đang vui.”
Đó là
chỗ người Trời tương liên, gọi là Thiên Nhân hiệp nhất. Thánh nhân cũng tiết
lậu cho chúng ta biết rằng: Loài người không những cầm vững tánh mạng của mình,
mà còn có thể điều khiển được nhiều quyền năng tự nhiên khác nữa. Mà muốn đạt
cơ huyền diệu ấy, người phải tu đắc Đạo, nghĩa là người phải phổ biến Thần Khí
của mình thành một động cơ với máy âm dương của Trời Đất. Còn như chưa hoàn
toàn đắc Đạo, thì ít ra người cũng phải áp dụng đời sống của mình, lên trên cái
đà luân chuyển của Đạo cũng như người cỡi ngựa.
Đạo là vô vi trừu tượng, biết Đạo là một việc,
hành đạo là một việc, thứ nữa Ông Vương Dương Minh có vạch rõ cái thuyết tri
hành hiệp nhất, nghĩa là biết và hành phải đi đôi. Chúng ta theo đó mà học và
hành mới có kết quả.
2. Hành Đạo:
Học Đạo là việc khó khăn, hành Đạo chẳng kém
phần khổ hạnh. Bước đầu hành giả phải dập tắt lửa lòng, gạt bỏ tật xấu xa ích
kỷ. Đoàn kết với tất cả chúng sanh trên đường tấn hóa. Bác ái là cử chỉ cao
khiết trong địa hạt tình cảm. Tiến nữa, kẻ học Đạo phải biết phân biệt phần thanh
trược của nhục thân, lẽ huyền diệu của linh hồn. Lần hồi phối hiệp tánh mạng
của mình, thành một động lực của Đạo, rồi nhờ nương cơ hội ấy, để vượt lên trên
cuộc sống phàm tục.
Cực Lạc thế giới là cảnh an vui, hào quang lóng
lánh sáng chói im lìm như nước mùa thu, du dương hơn khúc nhạc nghê-thường. Một
cảnh song có nhiều tên: Bồng Lai, Tiên Cảnh, Phật Địa, Thiên-Đàng.
Đạo là cơ quan sanh dưỡng muôn vật, Đạo là
tinh thần của đời sống. Thế nên hễ người càng gần Đạo thì càng sáng suốt, càng
sống lâu và càng hưởng nhiều hạnh phúc. Trái lại người càng xa Đạo phải chịu
nhiều điều thống khổ. Kẻ bỏ thiên lý theo nhơn dục thì chung quy kẻ đó sẽ bị
duyên nghiệp trần hoàn, nhận chìm trong cái máy nhân quả luân hồi, hết sanh rồi
tử, hết tử rồi sanh, sanh sanh tử tử sanh vô cùng tận.
3. Giáo
thuyết:
Có hai phần xuất thế và nhập thế, cũng gọi là
Thiên-Đạo và Nhơn Đạo.
a) Thiên-Đạo: Cách lập ngôn của Tam Giáo,
tuy có một đôi chỗ khác nhau về hình thức song tựu trung Tôn Giáo nào cũng lấy
sự giải thoát kiếp luân hồi làm mục đích cứu cánh và luận rằng, trần cảnh là
giả hiệp cái cảnh tượng ấy bất thường, khi tan khi hiệp như đám mây bay. Lúc
chìm lúc nổi như bọt nước trên mặt bể, mặc dù nó có thú vui riêng vủa nó. Nhưng
dưới cái vui lại có cái buồn cho nên có câu: “Cực lạc sanh bi”. Lại nữa, cõi
trần tỷ như khu vườn có đủ kỳ hoa dị thảo, người đời tỷ như loài bướm bay liệng
trên khu vườn, hút lấy nhụy rồi bay đi. Nghĩa là khách trần tạm ở cõi đời, thâu
thập kinh nghiệm để học hỏi tấn hóa rồi đi chớ chẳng khá lưu luyến. Nhất là Lão
giáo và Phật giáo khuyên người đời nên tuyệt diệt lòng nhân dục, để sống an vui
theo Đạo tự nhiên Trời Đất.
b) Nhơn Đạo: Tôn Giáo nào cũng dạy rành
mạch cách ở đời, nghĩ vì chúng ta phần đông đã thật hành giáo thuyết của nhà
Nho, thiết tưởng nay ta lấy thói quen ấy là cốt chỉ, rồi chiết những bài học ở trong
Thánh Ngôn và kinh điển Tam Giáo, để hoằng hóa thói quen rộng ra. Như thế có lẽ
chúng ta dụng công ít, mà thu hoạch được nhiều kết quả.
CHƯƠNG TRÌNH NHÂN ĐẠO
Tam cương lãnh và bát điều
mục
Tam cương lãnh gồm có: Tại minh minh đức, tại
tân dân, tại chỉ ư chí thiện.
Tại minh đức là gì? Nghĩa là cần lo trau dồi
cái đức tánh thiện lương của mình đã có sẵn gọi là thiên tánh hư linh bất muội
trau đồi thế nào cho càng ngày càng thêm sáng suốt mới mẻ, đừng cho vật dục xen
vào, hay ngoại cảnh lôi cuốn. Đừng đem thân làm nô lệ cho sáu dục bảy tình, đó
gọi là Minh Minh Đức.
Hễ ta đặng sáng suốt mới mẻ thì ta tìm phương
huấn luyện những người chung sống với ta đều đặng sáng suốt mới mẻ cũng như ta,
đó là Tân dân.
Hai lẽ ấy là phương làm cho mình cùng người
đồng một chí hướng nhau, đều đi đến chỗ tột lành ấy là “Chí Thiện”.
BÁT ĐIỀU MỤC
1- Cách Vật, 2- Trí Tri, 3- Thành Ý, 4- Chánh
Tâm, 5- Tu Thân, 6- Tề Gia, 7- Trị Quốc, 8- Bình Thiên Hạ.
1- Cách Vật: Cần phải nghiên cứu cả sự vật
cho đáo để cùng tột cái nguyên lý của nó, nghĩa là phải hiểu biết sự có trước
có sau, vật có gốc ngọn.
2- Trí Tri: Hễ tìm hiểu đặng rồi, thì không
chỗ nào ta thiếu kém sự hiểu biết, cái biết không còn mơ hồ nữa mà rất rõ ràng.
3- Thành Ý: Những điều thực, hư, chơn, giả,
đã đặng phân minh thì tự nhiên ý chí ta phát biểu ra những điều thành thật.
4- Chánh Tâm: Hễ ý chí ta thành thật, thì lẽ
tất nhiên tâm ta chánh đáng.
5- Tu Thân: Hễ tâm ta chánh đáng thì thân ta
trau dồi có tư cách uy nghi.
6- Tề Gia: Hễ thân ta đủ tư cách uy nghi thì
ta có phương sửa đương gia pháp.
7- Trị Quốc: Cái gia pháp này đặng hoàn toàn
nhân cách tất nhiên nó gây ảnh hưởng đến các gia pháp khác, dần dần hóa ra khắp
cả nước thì nước ắt đặng thạnh trị.
8- Bình Thiên Hạ: Hễ toàn thể trong nước trở
nên một phong hóa quốc gia thuần túy, là cả thảy trong nước đều đặng thuần
phong mỹ tục, cái gương tốt đẹp ấy lẽ đương nhiên nó sẽ gây ảnh hưởng đến toàn
thế giới nhân loại đều đặng chung hưởng thái bình.
Luận từ trong ra là như vậy, còn nếu xét từ
ngoài vào thì Nho giáo dạy: Muốn đem hòa bình gieo rắc trong thiên hạ (Bình
Thiên) trước phải làm tròn bổn phận đối với nước (Trị Quốc).
Muốn làm tròn bổn phận đối với nước, trước
phải xử xong việc nhà (tề gia). Muốn xử xong việc nhà, trước phải sửa mình ngay
thẳng (tu thân). Muốn sửa mình ngay thẳng, trước phải sửa Tâm chánh đáng (chánh
Tâm). Muốn sửa tâm chánh đáng, trước phải sửa ý thành thật (thành ý). Muốn sửa
ý thành thật, trước phải biết cùng tột mọi lẽ (trí tri). Muốn biết cùng tột mọi
lẽ trước phải theo phép phân tách (cách vật) để tìm hiểu sự lý.
Xét ra, thì Nho Giáo lấy sự điều hòa của
Trời-Đất làm căn bản cho Đạo người, cho nên khuyên người nhứt thiết phải hòa
thuận nhau, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đó là bổn phận đối với người.
Mà muốn làm tròn bổn phận đối với mình tức là tu thân, sách xưa có nói: Tự
thiên tử dĩ chí ư thứ dân nhứt thị giai dĩ tu thân vi bản. Từ bậc vua chúa cho
đến người thường, ai ai cũng đều lấy sự tu thân làm gốc.
TU THÂN RA SAO?
Tu Thân khởi đầu tại sự phân tích thân tâm
mình, tìm biết bổn tánh và kế đó phân tách sự vật bên ngoài, tìm biết cùng lý,
học tu như thế có nghĩa là thu thập tất cả ánh sáng của tâm hồn bên trong, trộn
lộn với sự lý bên ngoài thành một quan năng quán triệt tinh thần và vật chất, Nho Giáo gọi đó là đức sáng (minh
đức), đức sáng là ngọn đuốc rọi đường thiên lý cho người theo. Nếu người chẳng
có đức sáng thì nhân dục bộc khởi mà chỉ huy điều khiển hành vi của mình, đó
chính là nguyên nhân người phải xa Trời.
- Việc tu thân ví như người thợ Mộc muốn được
lành nghề trước phải học cưa, học đẽo, học bào… Thì Đạo làm người cũng vậy,
muốn trở nên người có phẩm hạnh, để làm tròn bổn phận con người, trước phải tu
thân, nghĩa là phải sửa mình ngay thẳng, rồi sau mới làm các bổn phận khác như:
Làm con, làm cha, làm chồng, làm vợ và làm người trong xã hội v.v…
Người xưa rất trọng Đạo tu thân, họ thường
khuyên nhau tu là cội phúc là căn bản đạo làm người, nếu thân chẳng chịu tu sửa
mà muốn tề gia, trị quốc, bình thiên hạ thì phải thất bại, bởi vì gốc loạn là
ngọn phải hư theo.
Theo chương trình nhân đạo, phép tu thân gồm
có 4 đề mục:
1- Cách vật, 2- Trí tri, 3- Thành ý, 4- Chánh
tâm.
Đề mục có 4 nhưng cũng như 2, vì chúng nó
tương liên chặt chẽ. Như nói cách vật rồi sau mới có trí tri, cùng như thành ý
rồi sau mới có chánh tâm. Vậy chúng ta tóm 4 đề mục làm 2, để tiện bề giảng
giải.
CÁCH VẬT TRÍ TRI
Có hai phương châm, một là phân tách thân tâm
của mình để tìm biết tận tánh. Hai là phân tách sự vật để tìm biết cùng lý.
Biết tận tánh: Biết tận tánh hay tự biết
mình. Cái đầu đề này mới nghe qua dường như nhỏ mọn tầm thường, sự thật nó là
then chốt đời sống. Trái lại nếu chúng ta chẳng biết mình, thì cuộc đời mình
chỉ sống cho kẻ khác, hoặc sống a dua theo hoàn cảnh thôi. Nay nếu có người
nói: Bạn sống cho kẻ khác, hoặc sống a dua theo hoàn cảnh, ắt bạn ngạc nhiên
lắm, nhưng bạn bình tâm xét kế đây thì rõ: Khi giận kẻ nào thì chúng ta nghĩ
cho kẻ ấy, nói cho kẻ ấy, hành vi cho kẻ ấy, vậy há chẳng phải chúng ta sống
cho kẻ khác sao? Hoặc giả khi nạp mình vào sòng cờ bạc, lúc bấy giờ chúng ta
mảng lo thua lo được. Vậy há có thể nào gọi sống cho ta.
Nghĩ cho mình, nói cho mình, hành vi cho
mình, đó là sống cho ta, mà muốn sống cho ta, chúng ta cần phải biết ta, mà
muốn biết ta, chúng ta cần phải đi sâu vào tâm giới của mình. Những bài kế đây
sẽ nói rõ phương pháp biết ta.
Người là linh hồn có nhục thể, nhắc lại khi
linh hồn lìa khỏi cội sanh là Trời và lưu chuyển từ thượng giới xuống phàm gian,
đến cõi nào linh hồn phải hấp thụ khí chất của cõi ấy để tạo cho mình một khí
chất thích nghi với hoàn cảnh, vì lẽ ấy, nên Thông Thiên học nói: Người có 7
xác thân, tự biết mình tức là tìm biết xác này đến xác nọ, mãi đến giác ngộ
phần tinh anh của Trời phú cho mình, đó là bản ngã chơn thật của mình vậy.
Lại nữa, người vốn có một bản tánh thiên
nhiên Trời phú cho, mà cũng có một tánh khí chất do hoàn cảnh vật chất tạo
thành. Chính cái tánh chất phàm tục này ám ảnh bản tánh thiên nhiên làm cho
người phải xa Trời. Ấy vậy, nên khi thực hành pháp kiến tánh, chúng ta phải
khảo sát tinh tường những ảo ảnh của tánh khí chất như: thất tình, lục dục mãi
đến giác ngộ cái tinh lực tìm tàng trong cõi lòng “vị phát chi trung” kia.
Đó mới thật là bản tánh thiên nhiên của Trời phú cho ta. Hoặc nói cách khác
rằng: Muốn biết tâm tánh phải tập trung cả Thần Khí, ý trí vào trung tâm điểm
mà suy gẫm và suy gẫm mãi đến giác ngộ, điểm tánh linh của Đức Thượng-Đế phú
cho người. Đó là cái Ta chơn thật của mình. Biết tận tánh thì con người đặng
sáng suốt cho nên Phật nói “Kiến tánh thành Phật”.
Gia công tìm biết cái tánh chơn thật của Ta
và tìm cách sống theo những phương chước có ích lợi cho cái Ta chơn thật, thế
mới thật ta đang sống cho mình vậy.
Tóm lại, nay nói rằng kẻ tu hành mà cố tìm lẽ
sống cho ta, thế thì ích kỷ lắm sao? Không, chẳng những không ích kỷ mà trái
lại biết ta, sống cho ta, tức là sống chung với vạn vật. Tại Sao? Bởi vì bổn
tánh ta là tánh Trời, mệnh danh là thiên lý, tìm biết ta là tìm biết thiên lý, đặt
đời sống ta trên nền tảng thiên lý, tức là chúng ta sống chung với vạn vật
trong tình huynh đệ. Đó là thật hành cái thuyết “Vạn vật nhất thể”.
BIẾT CÙNG LÝ
Tây phương triết học có câu: “Connais toi toi
même, tu connaitras l’ univers”, nghĩa là anh hãy biết anh trước, rồi anh sẽ
biết Vũ-trụ. Thì công phu biết tận tánh trước kia đưa đến chúng ta một sự hiểu
biết hoặc nhiều hoặc ít. Luật Trời tương liên với thân tâm chúng ta.
Bây giờ chúng ta lấy thiên lý làm căn bản, để
nghiên cứu chân lý ẩn vi trong muôn vật đó thực hành câu: Biết cùng lý.
Dường như loài người có tánh ham biết, bất
luận ở hoàn cảnh nào mỗi người tùy tiện mở mang cái biết của mình thêm lên mãi.
Tánh ham biết ấy, lần hồi đưa con người đến trình độ rất cao. Người xưa nhờ đó
mà ngẫm nghĩ đến lý siêu nhiên tuyệt đối đó là Đạo học.
Nay nhờ khoa học phát minh nhiều cơ khí tinh
xảo, đời sống vật chất nhờ đó mà được dồi dào phong phú. So sánh hai nền văn
minh xưa và nay, người xưa đặng đạo học mà phần nhiều thất khoa học. Người đời
nay đặng khoa học mà lại phần nhiều thất đạo học. Ước gì chúng ta kẻ hậu tấn đã
thừa hưởng hai cái đại nghiệp của tiền nhân, thì nên áp dụng cả hai vào đời
sống của mình. Đạo học dùng đưa tâm hồn tấn hóa theo luật thiên nhiên, khoa học
giúp đời sống vật chất được đầy đủ đặng vậy thì tinh thần vật chất đồng tiến
một nhịp song hành với nhau đưa con người đến nơi an vui hạnh phúc.
Xét trở lại phương pháp tìm biết cùng lý, nó
thuộc hữu vi pháp, nằm trọn trong phạm vi khoa học. Chúng ta nên mượn phương
tiện khoa học như biện chứng pháp, thí nghiệm pháp v.v… Để tham khảo đạo lý tìm
tàng trong vạn vật, nhưng có điều nên nhớ rằng, mục đích khoa học là tìm vật
chất, để giúp ích cho đời sống vật chất. Còn đây chúng ta mượn phương tiện khoa
học để cầu học Đạo lý. Dùng một phương tiện mà thâu hoạch hai cái kết quả khác
nhau, thành thử sự học cũng có đôi chỗ bất đồng.
Sau đây, chúng tôi xin chép một vài cách học
đạo lý để làm mẫu.
HỌC VỚI KINH SÁCH
Chọn kinh Tận-Độ, sách Thánh-Ngôn mỗi ngày
chúng ta đọc chừng vài trang và lưu tâm suy nghĩ, tìm hiểu cho kỳ được chân lý
ẩn tàng trong kinh sách. Đọc và nghĩ phải đi đôi, thì sự học mới có kết quả hay
nói: “Đọc kinh cầu lý”, là vậy.
Nói tỷ như, chúng ta đọc nhiều quá mà không
suy-nghĩ chẳng những không ghi nhớ mà có khi hiểu lầm nữa. “Đa thơ loạn tâm”
hoặc giả nghĩ nhiều quá mà không đọc, thì chẳng những tư tưởng không siêu
thoát, mà có khi quanh quẩn trong vòng nhân dục nữa.
Văn tự cũng như lời nói, chỉ ghi được những
tư tưởng thiển cận mà thôi. Chúng ta dùng văn tự để mở đường suy gẫm cho mình,
cũng như dùng chìa khóa mở kho chơn lý. Còn biết được chơn lý hay không, là do
công phu suy gẫm của mình mà thôi. “Chấp nhứt bất thông”.
HỌC VỚI THỰC TẾ
Việc thực tế thường ngày xảy ra chung quanh
chúng ta phiền phức lắm, nhưng sự vật nào cũng có gốc ngọn trước sau của nó.
Nếu chúng ta biết suy gẫm, thì sẽ rút được nhiều kinh nghiệm trong việc thực tế
hằng ngày.
Người đời sở dĩ không biết việc đời, hoặc
biết việc đời với một cách nông nổi, ấy chỉ vì nhận xét sai lầm hay nhận xét
không chu đáo. Nay muốn phá cái mê ấy, không chi bằng tập quan sát suy gẫm. Ấy
vậy nên khi sử sự tiếp vật dầu lớn, dầu nhỏ chúng ta nên bình tỉnh phân tích
từng món, từng loại tìm cho được cái nguyên nhân chính của nó để suy ra. Xem
như người ta dùng kính hiển vi, thâu ánh sáng mặt Trời lên trên trang giấy
trong chừng giây lát thì mảnh giấy phát hỏa cháy, đó là tại sao? Chẳng qua gôm
ánh sáng lại một chỗ rồi ánh sáng thành lửa. Nếu chúng ta biết tập trung Thần
Khí, ý chí để suy gẫm một việc gì, thì chúng ta có thể khám phá sự bí ẩn của sự
vật ấy. Cũng như kính hiển vi thâu ánh sáng mặt trời, đốt cháy mạnh giấy kia
vậy.
Ở đời chúng ta nếu biết phân tích suy gẫm, sẽ
giải quyết được nhiều việc khó khăn, vì ta đã nắm biết tận cùng cái lý của sự
vật. Đến đây thì công phu cách vật trí tri, đem lại chúng ta sự biết tận tánh
và cùng lý. Đó là cái chỗ chúng ta nói rằng: Kiêm dụng khoa học và đạo học đặng
đào tạo một đức sáng, rồi hằng ngày chúng ta công phu, nhắm đích chí thiện mà
trau dồi đức sáng này càng sáng thêm lên. “Pháp luân thường chuyển, Phật nhật
tăng huy”. Thường quay bánh xe Đạo pháp, thì hào quang của Phật ngày càng sáng
ra.
Chỉ có ngọn đuốc sáng thiêng liêng ấy, mới có
đủ tài năng phân biệt lẽ phải quấy cho chúng ta, hoặc theo hoặc tránh mà thôi.
THÀNH Ý CHÁNH TÂM
Ba mươi cây dụm lại tác thành hình tượng bánh
xe, nhưng chỗ cần cho bánh xe lăn tròn, là chỗ trống trong cái đùm. Nhồi đất
sét nắn lên hình tượng lu hủ, những chỗ cần đựng nước là lòng trống. Dùng cây,
đá, ngói, gạch tạo tác nhà cửa lâu dài, nhưng chỗ cần để ở và ra vào là những
chỗ trống bên trong.
Vậy chỗ thiết dụng của khí cụ là phần hư
không, người tuy chẳng so sánh như khí cụ, nhưng cũng không ngoài công lệ ấy
nghĩa là người tuy có tâm hồn, nhục thân mà chính tâm hồn là phần hư không ấy
là chủ nhục thân.
Vậy chúng ta muốn hành vi chánh đáng trước
phải tu thân tâm. Cổ nhân cũng có quan niệm rằng, tâm hồn thiết dụng hơn nhục
thể. Cho nên có câu:
“Tam điểm như
tinh tượng,
Hoành câu tợ nguyệt tà,
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật giả do tha”.
Nghĩa là chữ tâm có ba chấm giống ngôi sao,
một vòng câu giống hình mặt trăng khuyết. Thế mà vật mang lông đội sừng cũng
tại nó hoặc thành Phật cũng không ngoài nó.
Xem đó cũng đủ biết tâm hồn quan hệ là dường
nào, ấy vậy nên muốn tu thân trước phải chánh tâm, thế mà tại sao tâm bất chánh?
Bởi vì mình có phần uất ức, căm thù nên tâm
chẳng chánh. Có e sợ, ắt tâm chẳng chánh, có ham vui ắt tâm chẳng chánh. Có mắt
xem chẳng nhận thấy vật, tai nghe mà chẳng nhận biết lời, miệng ăn mà chẳng
nhận biết mùi. Vậy thân có hành vi không ngay chánh là tại tâm. Tâm sở dĩ bất
chánh là do tại sự mừng, giận, buồn, vui là do ý sanh ra.
THÀNH Ý
Chữ THÀNH nghĩa là chơn thật, chữ Ý chỉ về ý
thức của người, theo vị trí mà kể, ý thức nằm trong hàng thứ 6 trong số bát
thức. Bên ngoài nó liên hệ với năm thức là: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt
thức và Thân thức. Bên trong nó lại thông công với thức thứ bảy là truyền tống
thức (marnas) và thức thứ 8 là Hàm tàng thức (Alaya). Nhân dịp này chúng ta bàn
qua bát thức, âu cũng giúp ta vài tia sáng.
BÁT THỨC:
Người có ngũ quan là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi và
Thân. Ngũ quan giao tiếp với ngũ trần là sắc, thinh, hương, vị và xúc. Ngũ quan
là nhơn, ngũ trần là duyên, nhơn duyên giao cảm bèn sinh ngũ thức là quả.
Khi ngũ thức trược nhiễm ngoại vật và thông
truyền cái biết của chúng nó vào ý thức thì thức này phân biệt tốt xấu, hơn
kém. Lòng ham muốn hay ghét bỏ theo đó mà sanh. Cách biến sanh của nguồn nhơn
dục đại để như sau:
Ngũ quan cảm biết hình sắc và thông truyền
cái biết của chúng nó vào ý thức, rồi lòng ham muốn dấy lên. Có ham muốn rồi
mới lo mưu này kế nọ, đặng thâu đoạt được vật muốn. Nếu thu đoạt được vật muốn
thì mừng vui, bằng chẳng được thì đâm ra oán ghét, giận hờn. Đó là trào lưu sôi
nổi của lòng ham muốn, lòng ghét bỏ cũng theo lối ấy mà sanh.
Tóm lại, lòng ham muốn ghét bỏ đua nhau phát
triển, nghĩa là cũng đi từ cái ghét bỏ đến hờn giận. v.v…
Rồi thất tình lục dục đua nhau hoạt động, tâm
hồn bèn sanh nhiều tư tưởng lực khác. Những tư tưởng lực này chẳng những bất
đồng nhau, mà phần nhiều phản khắc nhau nữa. Chúng nó thường tranh nhau hoạt
động, thành thử tư tưởng biến sanh ra thiên hình vạn trạng.
Nhà tôn giáo muốn đặng tiện bề giảng học, bèn
tóm lại gọi là thất tình lục dục, đó là vọng niệm ở trong sáu thức là Nhãn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý rồi sau lại theo Truyền Tống Thức và Hàm Tàng Thức.
TRUYỀN TỐNG THỨC VÀ HÀM TÀNG THỨC
Như trên đã nói, vọng thức ban đầu do ngũ
thức mà sanh vào ý thức, rồi trọ đó hoạt động theo phàm trần vật chất mãi đến
hết cơ duyên thích ứng, rồi nương theo truyền tống thức đặng vào hàm tàng thức.
Truyền tống thức (thức thứ 7) không chứa vọng thức, nó chỉ nối liền ý thức với
hàm tàng thức, di chuyển các cái thức vào tạng thứ 8 mà thôi.
Hàm Tàng Thức (thức thứ 8) là một tạng ngầm
chứa tất cả các thức, thành ra một tâm lực mạnh mẽ, danh gọi là vọng tâm. Những
cái hay, dở, lành, dữ, tốt, xấu của người sau khi linh hóa rồi núp vào Hàm Tàng
Thức. Khi bình thường nó vắng lặng như không, nhưng khi gặp cơ duyên thuận tiện
thì nó bộc khởi mau lẹ, cũng như lương tri hay lương năng vậy. Nhiều người ngộ
nhận vọng tâm là bản ngã của mình, rồi lấy nó làm chủ động cho cuộc sống. Trên
đường giao tế chúng ta thường thấy, người đang vui và bỗng nhiên buồn, đang lo
mà bỗng nhiên sợ, dang giận mà bỗng nhiên thương. Đó là tại người không tự chủ,
rồi vọng tâm thừa hư mà sai khiến người cũng như bản ngã vậy. Ngạn ngữ nói:
Cái TA đáng ghét chính là bản ngã giả tạm đó.
Nên lưu ý, vọng thức cần có cơ duyên bên ngoài thì nó mới hoạt động trong tâm
giới, nhưng đã vào hàm tàng thức, vọng thức đã trụ thành vọng tâm rồi, nó không
cần ngoại vật mà nó đủ năng lực tự động.
Xem như khi rảnh rang chúng ta nằm một mình
trong phòng vắng, đáng lẽ thì chúng ta an vui lắm nhưng sự thật vọng tâm không
ngừng. Hễ hết nghĩ việc mình thì nghĩ việc người, hết nghĩ việc quá khứ thì
nghĩ việc hiện tại hay vị lai thậm chí trong đêm vắng canh chầy, thân thể nghỉ
ngơi mà vọng tâm cũng vơ vẩn trong bát thức như đã kể trên. Nếu chúng ta chẳng
hàng phục được vọng tâm, thí nó hoạt động mãi đến khi nhục thân tiêu diệt, thì
nó bao bọc linh hồn di chuyển sang kiếp khác nữa.
Phật nói: “Thức là hạt giống sanh kiếp luân
hồi”. Và phải hiểu rằng, vọng tâm ở trong người chúng ta hiện giờ, chẳng phải
do một kiếp hiện tại mà sanh ra, vốn nó chất chồng từ muôn vàn kiếp quá khứ,
thành thử nó rất mạnh mẽ có thể lấn áp được bổn tánh thiên nhiên.
Ấy vậy nên muốn phá vọng tâm thì người phải
dày công khó nhọc và phải có một phương pháp chân chính mới mong thành công, đó
là cái “Bí pháp chơn truyền Đại-Đạo”.
Đây là cả một vấn đề trọng đại, mà người tu
hành phải miệt mài bao nhiêu năm tháng ngày giờ mới mong kết quả.
Phần giáo lý bàn về nhơn đạo, chúng ta nên
thực hành lý thuyết “Khắc kỷ phục lễ” như sau, âu cũng là tạm gọi bỏ vọng về
chơn.
KHẮC KỶ PHỤC LỄ
- Mắt chẳng
xem hình thức vô lễ.
- Tai chẳng
nghe tiếng vô lễ.
- Miệng chẳng
ăn nói vô lễ.
- Mũi chẳng
ngửi mùi vô lễ.
- Thân chẳng
hành động vô lễ.
Ngũ-quan chẳng tiếp sự vật vô lễ, thì ngũ
thức không có chỗ nương để sanh, thế rồi ba thức kia là ý thức,
Truyền-Tống-Thức và Hàm-Tàng-Thức cũng nhờ đó mà an định.
Bỏ vọng rồi, nên theo phương-pháp sau đây để
tồn chơn. Chúng ta bắt buộc ngũ quan phải theo lẽ chánh là linh động. Tỷ như
mắt xem sách, tai nghe kinh, miệng nói lời đạo đức, thân làm việc nhân nghĩa.
Thế rồi ý thức trở về chơn, mà hễ ý chơn thì truyền Tống Thức và Hàm Tàng Thức
sẽ thành. Có điều nên lưu tâm là công phu THÀNH Ý, quý tại chỗ không khinh mình
nghĩa là mình định làm việc chi, thì phải bền tâm cho lắm, chẳng khá bán đồ nhi
phế. Thất tín với mình là một việc tối kỵ.
Phải hiểu rằng vọng tâm là một tâm lực mạnh
mẽ lắm, nếu chúng ta không tự trọng thì phép thành ý không viên mãn.
CHÁNH TÂM
Vọng tâm đã chồng chất từ muôn ngàn kiếp
trước và ăn sâu vào tâm giới, nay thực hành pháp thành ý. Tuy đã có dẹp được
phần nào, nhưng vọng tâm vốn còn gốc rễ trong chỗ sâu xa. Chánh tâm là phép
bứng sạch phần vọng ấy, nhưng có điều đáng tiếc là chúng ta còn ở thế thực hành
nhân đạo công phu chánh tâm của chúng ta chẳng đặng trọn vẹn, như các bậc chơn
tu xuất gia. Tuy vậy, song mỗi ngày chúng ta cũng nên công phu hai giờ Tý, Ngọ
hay Mẹo, Dậu để gội rửa tâm hồn dọn lòng trong sạch.
TĨNH TÂM VÀ THÀNH TÂM
Tĩnh tâm: Giờ rãnh chúng ta nên bình tâm ôn
lại và phán xét, việc làm lời nói và tư tưởng trong ngày vừa qua.
Nếu có việc lành thì cố gắng làm theo cho đến
lẽ chí thiện, còn như có việc chẳng lành, thì cũng mạnh bạo dứt bỏ hẳn, cho cái
chẳng lành không được nhiễm vào tâm giới.
Nên nhớ rằng nhơn tâm vốn nguy hại, cho nên
Thánh Nhân nói: “Nhơn tâm vi nguy”, tại sao? Vì nó hay biến hóa muôn hình ngàn
trạng để dối gạt mình. Thành thử khi phán xét lẽ phải quấy, chúng ta nên đánh
thức cái bản ngã chân thật của mình, tức là Phật Tánh ở trong người của chúng
ta, để làm quan tòa thẩm xét và phán đoán lành dữ phân minh rồi sau hãy theo
hay gạt bỏ.
Muốn trừ tuyệt những xấu xa đã ăn sâu vào nội
tâm, chúng ta nên thực hành phép đối trị. Ví như chúng ta gặp trường hợp khiến
mình nóng giận thì miệng nói: Tôi ôn hòa, trí nghĩ tôi ôn hòa. Miệng nói trí
nghĩ thì tư tưởng ôn hòa, sẽ lấn tánh nóng giận ra ngoài tâm thức.
Theo lẽ thường, người không thể chứa hai tư
tưởng một lượt được. Thế nên lòng chúng ta có tư tưởng ôn hòa, thì tức nhiên
nóng giận không có chỗ mà ở phải lánh xa. Mỗi tật xấu chúng ta dùng tánh tốt để
đối trị, cũng như bệnh nào dùng thuốc nấy, rồi bền chí theo phương pháp đó mà
tập rèn.
Tánh tốt càng gia tăng tật xấu càng giảm bớt,
làm mãi rồi tâm địa chúng ta cũng được toàn thiện. Thánh Nhân mỗi ngày xét mình
ba lần, chúng ta mặc dầu chẳng dám so sánh với Thánh nhân, song cũng phải có
một lần tỉnh tâm để kiểm điểm bình sanh sự của mình.
THÀNH TÂM
Công phu này buộc phải quên hết trần lao tục
lụy, đặt mình trong phòng vắng đại ý tránh việc ngoài kích động đến tâm. Cảnh
vắng tâm vắng, đoạn dung hòa tâm cảnh nhất tề yên lặng. Yên lặng là chìa khóa
mở cửa đạo học, cho nên sách xưa có câu: “Mặc mặc vô lượng Thần Tiên tùng thử
đắc”.
Yên lặng và yên lặng nữa, chỉ có một phép yên
lặng, không phải dứt đường suy nghĩ thì đọa về bên đường hư ngụy, nhưng suy
nghĩ quấy quá thì bị đọa về bên sắc tướng. Thái quá và bất cập đều thất đạo về
trung hòa cả.
CHÍ THÀNH
Chí Thành:
Là lớp cao đẳng trong Nho Giáo, muốn tiến đến
bậc chí thành học giả phải qua phép thành ý và chánh tâm, nhứt là phải giữ vẹn
Đạo Trung Hòa, phát triển đến cùng cực thì Trời Đất được an vị, an vị có nghĩa
là Trời thì cao minh che chở muôn vật, đất rộng dày, yên lặng mà nuôi sống muôn
loài, loài người được an cư lạc nghiệp, thế giới hòa bình. (Trí trung hòa,
thiên địa vị yên, vạn vật dục yên). Thiên ngôn vạn ngữ không thể nói hết cái
Đạo của Trời Đất, chỉ có một chữ “Thành” là nói hết được. Người tu mà đạt được
đạo chí thành thì Trời Đất và mình là một, chỗ này Thánh Ngôn dạy: “Đạo Thầy là
các con, các con là Thầy”, “Thiên địa chi Đạo khả dĩ nhất ngôn nhi tận giã”.
Người xưa có câu: Đạo chẳng khá lìa tâm giây phút nào cả, nếu Đạo xa tâm thì
không còn phải Đạo nữa. Đạo bất khả tu du lỵ giã, khả ly phi Đạo giã.
Nay hỏi thế nào là Trung Hòa, thì sách Nho
nói rằng: Tâm chưa có mừng giận, buồn vui dấy lên thì gọi là Trung, dấy lên mà
trúng tiết thì gọi là hòa, Trung là Đạo chánh trong thiên hạ (đại bản), Hòa là
phương pháp đạt Đạo Trung. “Hỷ nộ ai lạc vị chi phát, vị chi Trung. Phát nhi
giai trúng tiết vị chi Hòa. Trung giã đại bản giả. Hòa giã chi đạt Đạo dã”.
Còn như luận Đạo Trung Hòa đến cùng cực, thì
âm dương trong người được quân bình, Thủy-Hỏa được ký tế, tinh-Thần hồn phách
được qui trung. Trung đây là Ngôi Hoàng Cực, là số 5 ở giữa Lạc Thư là Trung
Đạo.
Phàm người nào giữ được Đạo Trung Hòa như
thế, thì được chứng vào bậc Chí Thành. Sách Trung Dung nói rằng: Bậc Chí Thành có
thể biết trước được mọi việc, nước nhà sắp vượng ắt có điềm tốt, nước nhà sắp
suy ắt có điềm xấu (Chí Thành chi đạo khả dĩ tiên tri, Quốc gia tương hưng tất
hữu trinh tường, quốc gia tương vong tất hữu yêu nghiệt).
Lấy tấm lòng chí thành có thể biết trước được
mọi việc sắp xảy ra, là vì sao? Họa chưa đến mà biết trước được Họa là vì xem ở
nơi hành vi bất thiện, phước chưa đến mà biết trước được phước là xem ở hành vi
thiện, người có tâm chí thành thấy được những chỗ người ta không thấy, nghe
được những chỗ người ta không nghe, biết được những điều người ta chưa biết. Bề
ngoài là người, mà bên trong họ có một tâm linh sáng suốt, cho nên nói: Chí
thành là Thần, (Cố chí thành như Thần). Lại nữa, trong thiên hạ duy có bậc chí
thành phát tiết được hết thiên tánh của người và của vật; nhờ vậy mà bậc chí
thành đặng liệt vào hàng tam tài (Thiên Địa Nhân).
Tóm lại, Đạo của Trời chỉ ở nơi lòng người mà
thôi, lòng người tức là nhân chi Đạo, mà nhân chi đạo tức là thiên chi đạo. Đức
Khổng Tử nói: “Thành giả thiên chi đạo giả. Thành chi giả, nhân chi đạo giả”.
Nhân Đạo và Thiên Đạo chỉ khác danh từ, nhưng về tinh thần chỉ có một chữ thành
mà thôi.
Trong bài niệm hương: “Đạo gốc bởi lòng thành
tín hiệp” lòng thành là ý nghĩa như vậy.
Chí thành là kết quả cứu cánh của Đạo học, còn
phép thành tâm về nhơn Đạo mà chúng ta theo học tập đây, có mục đích yêu cầu
một tâm hồn sáng suốt nhân từ ở trong thân thể sức khỏe tinh khiết mà thôi. Thế
nên công phu học hành không mấy khổ hạnh. Chánh Tâm là phương tối yếu trong
phép tu thân. Cổ nhân nói: Tâm chánh rồi
sau mới thân tu, thân tu rồi sau mới tề gia, tề gia rồi sau mới trị quốc, trị
quốc rồi sau mới gieo rắc hòa bình thiên hạ. Vì vậy, cho nên tu thân là gốc Đạo
làm người, mà muốn tu thân trước phải chánh tâm và tiến lên nữa, mới được chứng
vào bậc Chí Thành.
PHƯƠNG CHÂM XỬ THẾ
1. Nhân Nghĩa.
2. Hiếu Để.
3. Hòa Kỉnh.
4. Đại Đồng
huynh đệ.
Nhân nghĩa: Người đời thường nói hai
chữ Nhân Nghĩa, Đạo hữu lại dùng hai chữ nhân nghĩa làm mục tiêu Nhân đạo. Vậy
nhân nghĩa là gì? Mà phải làm những gì gọi là nhân nghĩa? Có lẽ ai ai cũng muốn
hiểu điều ấy, mà muốn hiểu chúng nên tham khảo lịch trình của nó may ra mới lột
được tinh thần Nhân nghĩa.
Người xưa đã nói: Trời thì có nhựt nguyệt,
đất có cương nhu, người có Nhân Nghĩa. Đức Khổng Tử cho rằng: muốn đem Hòa bình
gieo rắc trong cõi đời hỗn độn, nếu dùng triết học thuần túy thì khó thành công.
cho nên, ngài đề xướng đạo xử thế và thiết lập phương pháp hành vi rồi khuyên
người đời theo đó mà sinh sống thì chung qui tạo được hạnh phúc gia đình và hòa
bình xã hội. Đạo xử thế ấy là nhân, phương pháp hành vi ấy là nghĩa.
Chữ Nhân: có người hỏi thế nào là Nhân. Mạnh
Tử nói: “Nhân giả nhân giả” nghĩa là cái lòng tốt biết thương người yêu vật, đó
chính là chân lý để làm người vậy. Đây bàn riêng về phương diện xử thế chữ nhân
có nghĩa như vậy: Một chữ nhị ghép với chữ Nhân thành chữ nhân ( ), tức nói
rằng: Muốn thực hành đạo nhân phải có hai hoặc nhiều người, tại sao? Bởi đạo
nhân dạy chúng ta phải thương người và giúp người, mà muốn thực hành sự thương
và giúp, lẽ tất nhiên phải có hai hoặc nhiều người.
Chữ Nghĩa là phương thật hành đạo làm người,
hoặc nói cách khác: nghĩa là hình dung của đạo nhân.
Vậy nên, nhân nghĩa phải đi đôi đặng thành
toàn lẫn nhau, ví dụ thấy người bần khổ thì chạnh lòng thương xót, đó thuộc về
nhân, ra tay giúp người bần khổ hoặc tiền của, hoặc công cán, đó thuộc về
nghĩa. Nếu có lòng thương xót kẻ khốn cùng mà không ra công giúp đỡ thì lòng
thương xót không hình dung được; còn như ra công hoặc của để giúp người mà
không lòng thương xót thì sự giúp đỡ ấy chẳng phải là đạo nhân, mà thật có một
lẽ gì khác. Thế nên nói rằng: Hai chữ nhân nghĩa nếu thiếu một thì không thành
vấn đề.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Nay thử hỏi phải làm những gì là nhân nghĩa,
thì sách nói: “Kỷ dục lập, nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân, năng cận thủ
thí, khả vị nhân chi phương giã dĩ”.
Mình muốn học làm nhân, phải do từ thấp lên
cao, từ gần đến xa, trước hết phải sửa lòng trong sạch, vứt bỏ tánh ích kỹ tư
tâm, chủ quan bản ngã. Mình muốn lập thân danh thế nào, thì giúp người cũng lập
như mình (Kỹ dục lập nhi lập nhân). Mình muốn thông hiểu đến đâu thì cũng giúp
người thông hiểu như mình (Kỷ dục đạt nhi đạt nhân). Hãy lấy lòng mình mà suy
đạt lòng người, thí dụ lòng người cũng như lòng mình, xem người cũng như mình,
lấy cách đối đãi mình mà đối đãi người (Năng cận thủ thí) đặng vậy mới gọi là
phương pháp để làm nhân (Khả vị nhân chi phương giải dĩ).
Chúng ta nên hiểu: Nhân nghĩa khuyên người ta
nên thương yêu hỗ trợ lẫn nhau, chẳng những trên đường sinh sống vật chất mà
dìu dắt nhau trên đường tấn hóa. Thiết tưởng mỗi người đều thi nhau làm nhân
nghĩa thì ắt mỗi gia đình được hòa thuận, rồi nhiều gia đình hòa thuận, hiệp
thành một nước thạnh trị, nhiều nước thạnh trị hiệp thành thế giới hòa bình.
Hòa bình thế giới là mục tiêu mà mỗi người đều mong muốn. Nhưng trong khi thực
hành nhân nghĩa để cầu sự hòa bình trong thiên hạ, chúng ta nên cẩn mật, vì
lòng nhân nghĩa nếu không vững chắc thì lòng ham muốn sẽ chi phối mà xui người
phải thiên lệch.
Cha có quyền răn con, nhưng nghĩa vụ buộc
người cha phải thương con, nuôi con cho nên vai nên vóc, dạy con cho nên người
hữu dụng. Chồng có quyền khuyên vợ, nhưng nghĩa vụ buộc người chồng phải mưu
hạnh phúc gia đình. Anh có quyền sai em nhưng nghĩa vụ buộc người anh phải thay
thế cho cha, thương em, nuôi em và dạy dỗ em khi cha vắng mặt.
Cái “Thuyết chánh danh” của Đức Khổng Tử bảo
rằng: Cha phải đáng phận cha, con phải đáng phận con, chồng phải đáng phận
chồng, vợ phải đáng phận vợ, tức là cũng khuyên người thực hành nghĩa
vụ làm người vậy.
Sách Mạnh Tử chép rằng: Một hôm Thầy Mạnh Tử
đến nước Lương ra mắt vua Huệ Vương, nhà vua nói: Ông già chẳng nài ngàn dặm xa
xôi mà đến đây, ắt ông sẽ bàn việc gì có lợi cho nước tôi chăng? Thầy Mạnh Tử
đáp rằng: Hễ làm vua thì chẳng khá nói lợi, giả tỷ như nhà vua nói: Lấy gì lợi
cho nước tôi, quan đại phu nói: lấy gì lợi cho nhà tôi, kẻ sĩ và thứ dân nói:
lấy gì lợi cho thân tôi, nếu từ trên đến dưới đều chăm chú vào lợi, thì trên
dưới phải đua tranh giành giựt mà nước phải nguy vậy. Lời nói nầy đã rõ lắm
rồi, có điều đáng lưu ý là thời kỳ Nho tông thạnh hành, trong dân gian người
người khuyên nhau: tiên nghĩa nhi hậu lợi, nghĩa là người ta nên đặt nghĩa vụ lên
trên quyền lợi. Lúc bấy giờ nhơn sanh sùng thượng hai chữ nghĩa vụ như một vị
thiên thần, mặc niệm hai chữ nghĩa vụ như một câu khẩu quyết. Nhà đạo đức xá
phú cầu bần, còn trong nhân gian người người đua nhau làm việc nghĩa, kẻ làm
con trọn đời phụng sự cho cha mẹ, kịp đến khi cha mẹ già, gia nghiệp qui hoàn
về con, thế mà họ chẳng hề sử dụng theo tư tâm tư ý, họ nhủ rằng: Bổn phận con
phải bảo tồn cái gì của cha mẹ truyền lại, sự tử như sự sanh mới tròn đạo hiếu.
NHÂN NGHĨA DO ĐÂU MÀ LẬP THÀNH
Trời vốn có đức hiếu sanh vô cùng tận, tánh
người là điểm tánh linh của Trời phú cho. Linh hồn con người mặc dù tách ra
khỏi khối đại hồn của Trời, song linh hồn vẫn còn giữ mãi đức hiếu sanh của
Trời nơi mình, ấy vậy thương yêu là tánh tự nhiên của con người. Đức Khổng Tử
do đó mà lập ra đạo nhân nghĩa. Sách Nho có câu: “Đạt hồ tính tình chi lý, tri
hồ trú dạ chi đạo, tri u minh chi cổ, đỗ du khí chi Nguyên, Nhược thử tắc khả
vị thành nhân hĩ. Ký tri thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa, sức thân dĩ lễ
nhạc, phù nhân nghĩa lễ nhạc thành nhân chi hạnh dã”.
Nghĩa là: Đạt được chân lý về tính tình, hiểu
được sự biến hóa như thế nào mà tạo nên người và vạn vật khác nhau, biết được
có các sự kiện cõi u minh. Rõ được nguồn gốc của linh hồn con người, được như
thế mới gọi là thành nhân. Bởi biết được đạo Trời là như thế, mới đem thân theo
nhân nghĩa, làm đẹp thân bằng lễ nhạc, nên “Nhân nghĩa lễ nhạc” là đức hạnh của
bậc thành nhân.
Có lần Đức Khổng Tử nói: Nhân ở trong lòng
người, nên người muốn làm nhân thì làm được ngay.
Ông Vương Dương Minh nói: Cái biết của người
là bản thể của tâm, Tâm tự nhiên lãnh hội. Thấy cha mẹ tự nhiên biết thảo, thấy
anh em tự nhiên biết thuận, thấy đứa trẻ té giếng tự nhiên biết thương yêu, cái
biết ấy thuộc về lương tri chẳng khá cầu bên ngoài “Tri thị tâm, tri bản thể,
tâm tự nhiên hội tri, kiến phụ mẫu tự nhiên tri hiếu, kiến huynh đệ tự nhiên
tri để, bất khả ngoại cầu”.
Vậy đủ hiểu thương yêu là bản tánh loài người
và chính đó là đức háo sanh của Trời chia sớt cho con người. Nay bản tánh chúng
ta vì một lẽ gì mà bị vật dục chi phối, khiến lòng nhân biến ra ích kỷ, thì
chúng ta nên tìm lại đức háo sanh của Trời để làm khuôn thước đo lường trong
khi thực hành đạo nhân nghĩa. Thiết tưởng, bắt chước đức háo sanh của Trời để
làm đạo nhân của người, dầu chúng ta chưa được hoàn toàn chân thiện như Đạo
Trời, chớ không đến đổi phải sa vào con đường hung ác đầy tội lỗi.
Dưới đây, xin trích bài Thánh Ngôn dạy về sự
thương yêu:
“Thầy là cha của sự thương yêu, do bởi sự
thương yêu mới tạo thành thế giới và sanh sản các con. Vậy các con sản xuất nơi
sự thương yêu là cơ thể của sự thương yêu đó. Sự thương yêu là giềng bảo sanh
của Càn Khôn thế giới, bởi sự thương yêu mà vạn loại hòa bình, Càn Khôn an
tịnh, đặng an tịnh mới không thù ghét lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau mới
không tìm cách tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa.
…………………..
Vậy Thầy cấm các con từ đây ví không đủ sức
thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau nghe à!”.
THẾ NÀO LÀ HIẾU ĐỂ
Nhân đạo dạy chúng ta thương người như thương
mình, giúp người như giúp ta và sự thương yêu giúp đỡ ấy bắt đầu từ chỗ gần đến
xa. Thử hỏi người gần với ta hơn hết là ai? Có phải là cha mẹ và anh em chăng?
Thế nên nói: Hiếu để là gốc đạo xử thế và chánh đạo gia đình.
Thế nào là hiếu với cha mẹ? ? Xin xem những
câu chúng tôi trích lục trong sách đạo như sau:
1. Thân thể chúng ta thọ sanh nơi cha mẹ,
chẳng dám hủy hoại ấy là khởi đầu Đạo Hiếu.
2. Con thờ cha mẹ lúc bình thường thì cung
kính, nuôi dưỡng thì vui vẻ, bịnh tật thì hết lòng chăm sóc, mất thì tang chế
trang nghiêm, tế lễ thì kính trọng.
3. Kẻ nào không thương cha mẹ mà lại nói thương
mến người khác là trái Đạo Hiếu – kẻ nào không kính cha mẹ mà kính người khác
là thiếu lễ nghi.
4. Cha sanh ta, mẹ nuôi ta, công ơn cha mẹ
sanh nuôi như trời bể, nay muốn báo đáp phải làm sao?
5. Công ơn cha mẹ như Trời bể, thế nên lời
nói chúng ta không đủ lời để trả lời câu hỏi này nên chúng ta để cho mọi người
tự suy nghĩ lấy.
6. Trong thiên hạ chẳng có cha mẹ nào lại
không thương con, có nuôi con rồi mới biết thương cha mẹ, cũng như ra sức hành
đạo rồi mới thấy làm người thật là khó!
7. Phần làm con khi ra khỏi nhà phải thưa,
lúc về phải trình, đi đến chỗ nào phải nói trước cho cha mẹ hay. Khi nhàn rỗi
có chơi cũng chẳng khá quên bổn phận của mình là phải lập thân hành Đạo, chẳng
đặng buông lung phóng túng quên việc lớn.
8. Con phải biết tuổi cha mẹ, một là mừng cho
cha mẹ được sống lâu, hai là lo cho cha mẹ tuổi già.
9. Người nào thảo với cha mẹ thì con sẽ trả
hiếu lại.
10. Kẻ nào bất hiếu với cha mẹ thì con sẽ trả
lại ngỗ nghịch.
11. Ai chẳng tin điều ấy là thiệt thì hãy xem
những giọt nước trên mái nhà kia sẽ rõ: Giọt này rớt xuống rồi có giọt khác
tiếp theo, mà muôn giọt đều giống nhau như một, đó là những bài học về Hiếu.
BẤT HIẾU CÓ 5 ĐIỀU NHƯ SAU:
1. Biếng nhát bê trể bổn phận đối với cha mẹ.
2. Ham mê tiền bạc bóng sắc mà phóng bỏ đạo
hiếu.
3. Ham mê ăn chơi cờ bạc, rượu chè mà phải
thất phận làm con.
4. Buông lung theo đàng điếm, trộm cướp, tham
lam mà phải mất đạo làm người.
5. Ỷ
sức khoe tài tranh đua vô đạo với thiên hạ làm liên lụy đến cha mẹ.
THẾ NÀO LÀ THUẬN VỚI ANH EM
Anh em đồng thọ sanh một cha mẹ, thân thể anh
em là di hài của cha mẹ, anh em bất hòa tức phá hoại cái di hài ấy. Anh em như
tay chân, anh em bất hòa tức là chia lìa thủ túc. Thảo thuận là gốc đạo xử thế,
ấy vậy nên người trọn thảo thì lòng Hiếu sẽ lan rộng đến triều đình. Người trọn
thuận thì tinh thần ái chúng ấy sẽ lan rộng ra xã hội. Xử đạo nhà nghiêm minh
thì tinh thần Hòa Kỉnh sẽ lan rộng khắp làng nước. Nhưng phải biết hiếu thuận
do tâm mà ra, cho nên muốn hành đạo hiếu trước phải tu tâm dưỡng tánh. Ngày nay
người ta ví gia đình như là một tế bào của xã hội, hễ gia đình có đạo đức thì
xã hội mới được an ninh trật tự.
THẾ NÀO LÀ HÒA KỈNH
Hòa Kỉnh là chung hợp nhiều người mà chẳng có
xích mích lẫn nhau, chúng ta thường nghe nói: Vợ chồng hòa gia đạo thành, quốc
gia hòa thì nước thạnh trị, nếu cả thế gian hòa thì thiên hạ thái bình. Vậy
chúng ta có thể nói: Hòa là một tiêu chuẩn cần thiết để đào tạo xây dựng hạnh
phúc chung cho nhân loại.
Đối với cá nhân Hòa còn trọng yếu hơn nữa,
kìa châu thân chúng ta vốn có ngũ tạng lục phủ, tạng phủ hòa nhau thì người có
sức khỏe không bịnh tật. Nới rộng ra nữa, Người vốn có “Tam Bửu” Tinh-Khí-Thần,
nếu biết hực hành tâm pháp luyện khí công thì con người hoàn toàn có sức khỏe
và được giải thoát kiếp luân hồi sanh tử. Xem đó thì hòa cần yếu cho đời sống
con người biết dường nào, mà thử hỏi muốn hòa thì phải làm sao? Thì phải kính
nễ lẫn nhau trên đường giao tế, người phải giữ địa vị của mình, và mỗi người
phải làm trọn bổn phận của mình nhưng phải hiểu rằng: Hòa và Kỉnh phải đi đôi
với nhau thì mới tròn nhiệm vụ. Ví dụ: Người ta cứ hội hiệp mà chẳng kỉnh nhau,
mỗi người cứ tự do ăn nói sổ sàng, hành động khiếm nhã, thế rồi người ta mích
nhau mà tự giải tán. Đó là Hòa mà không Kỉnh thì loạn. Hoặc giả: Người ta kính
nhau quá, kẻ nhỏ sợ người lớn mà chẳng dám gần, còn người lớn khinh kẻ nhỏ mà
lánh xa, nhỏ lớn cách biệt hẳn thế là kỉnh mà không hòa thì ly loạn.
Loạn ly thì làm sao kến tạo hạnh phúc hòa
bình cho gia đình và xã hội.
NỀN TẢNG HÒA KỈNH
Trong lúc bán dạ thâm canh, vạn vật an giấc
trong bầu vũ trụ êm đềm, chúng ta thử ngước mặt trông lên bầu trời cao vòi vọi
kia, chúng ta thấy hằng hà sa số đóm sáng lập lòe, những tinh tú đẹp như hoa
ấy, mắt phàm không thấy, nhưng kỳ thật những tinh cầu linh động luôn luôn, thế
mà chúng chẳng hề đụng chạm, xâm lấn nhau, thử hỏi đó là tại sao? Thì chẳng qua
vạn vật do luật hấp dẫn và điều hòa của Trời đất mà linh hoạt, nhờ vậy nên Vũ
trụ mới thái hòa.
Thánh nhân ngày xưa biết loài người chịu ảnh
hưởng của luật thiên nhiên nên mới có sự sanh sống an vui trong Trời Đất, cho
nên Thánh nhân mới noi theo luật trật tự vũ trụ mà chế ra thành lễ nghi để cảm
hóa lòng người khuynh hướng về chỗ trật tự, thế cho nên nói rằng: “Hòa và Kỉnh
do luật Trời mà chế thành”.
Lễ nghi: Lễ là Kỉnh trong lòng, nghi là hình
thức, tỏ lòng cung kính ra bề ngoài. Ví dụ: gặp người trưởng thượng chúng ta
sanh lòng kỉnh ấy là lễ, nghiêng mũ cúi chào tỏ lòng kính ra ngoài ấy là nghi.
Thế nên có câu: Nghi tùy lễ mà chế, lễ tùy nghi mà thành, lễ nghi phải theo
nhau mới đặng. Tỷ dụ: Chúng ta kính trong lòng mà không dùng nghi để tỏ ra
ngoài thì lễ chẳng hình dung được; Trái lại, nếu chúng ta nghiêng mũ cúi chào
mà lòng không kính thế là nghi mà thiếu lễ, đấy chỉ là hình thức khô khan mà
thôi.
Ai cũng có lòng yêu kính cha mẹ, yêu thương
con cháu, Thánh Nhơn chế ra lễ nghi để dạy người phát biểu cái ý kiến ấy một
cách thanh tao, nhã nhặn. Vậy nên có câu: “Lễ nghi là tinh hoa của loài người”.
Muốn học lễ không khó khăn như nhiều người
lầm tưởng, vì lễ nghi thuận lòng người mà dạy chớ không phải cưỡng bách. Cổ
nhân thường khuyên nhau: “Làm người trước học lễ, rồi sau sẽ học văn” (Tiên học
lễ, hậu học văn), Luật dùng trị thân, lễ dùng trị tâm.
Nhiều người sợ phạm luật, song ít kẻ sợ thất
lễ, tại sao? Bởi luật có hậu thuẫn là hình phạt, còn lễ bất quá trách thiện
thôi. Cổ nhân có dạy: “Lễ phòng ư quân tử, luật phòng ư tiểu nhân”.
Giữ lễ: Đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng
chẳng khá quên lễ, ở thường thì cung, làm việc thì kính, giao thiệp thì hết
lòng. Gắn làm 3 điều ấy dầu ở chung với kẻ mọi rợ cũng chẳng khá quên, ra khỏi
cửa, lúc vào, cung kính như hầu khách quý, sai khiến kẻ dưới lúc nào cũng kính
cẩn như thực hành lệnh trên. Điều mà ta không muốn, chẳng khá thi thố với
người, nhứt nhứt việc gì cũng phải giữ lễ, cung kính mà không lễ thì phiền phứt
vô ích, cẩn thận mà không lễ ra rụt rè nhút nhác, dũng mà không lễ thì khí
huyết bồng bột mà ra thành loạn động, trực mà không lễ thì mất ôn hòa thành ra
ngang ngạnh. Thế đủ rõ làm việc mà không lễ thì không nên.
Tình cảm là một tâm lực hay giúp lòng nhân
được mẫn huệ, nhưng lòng người có tình cảm tốt, như các nhà chân tu nhờ biết
điều hòa tình cảm chân chính dung hợp với lương tri, nên họ có một quan khiếu
linh cảm rất huyền diệu, quan khiếu ấy giúp họ đặng sáng suốt, học một biết
mười, “Hạ học nhi thượng đạt” đó là “Huệ Nhãn”.
Tiết độ - hành vi và lời nói mỗi mỗi đều có
trước có sau đó là người có tiết, hành vi lời nói và tư tưởng mỗi mỗi đều có
thích trung, đó là người có độ. Tiết độ là mực thước của cử chỉ người, cũng như
nhịp phách là mực thước của âm nhạc. Tiết nên hạn chế, độ nên mở rộng. Tiết độ
nghĩa là làm việc gì cũng phải có chừng mực, có điều độ.
TAM ĐỨC
NHÂN – TRÍ – DŨNG
Nho Giáo dạy con người học tu để trở nên hiền
nhân, quân tử. Quân tử là người thông đạt được lý trời đất, minh triết, giác
ngộ, là mẫu người lý tưởng. Muốn trở nên người quân tử phải có đủ ba đức:
Nhân-Trí-Dũng. Đức Khổng nói: “Quân tử hữu tam, ngã vô năng yên, Nhân giả bất
ưu, Trí giả bất hoặc, Dũng giả bất cụ. Nghĩa là đường lối làm người quân tử chỉ
có ba điều nhưng ta chưa hay làm được. Ba điều đó là: Có lòng nhân thì chẳng có
việc gì buồn, có trí thức, học thức thì chẳng có việc gì mê lầm, có đức dũng
tức là lòng can đảm thì chẳng có việc gì đáng kinh sợ.
Muốn trở thành người quân tử thì trước tiên
phải lập chí. Người xưa đã nói: Có chí thì nên (Hữu chí giã, sự cảnh thành). Có
điều, bước đầu tiên lập chí phải hết sức thận trọng, biết bao người lập chí sai
lầm mà ngày sau thất bại ân hận. Chí ư ăn ngon, mặc đẹp, chí ư phú quý vinh
hoa, chí ư cầu danh trục lợi, cái lập chí đó đã khiến nhân cách mình hèn hạ,
giá trị mình đê liệt, kết quả là mình trở nên người vô đạo, phi nhân.
Đức Khổng sợ bước đầu mình lập chí sai lầm
nên Ngài dạy: “Cẩu chí ư nhân hỷ, vô ác giã”, nghĩa là ta phải để chí vào đức
nhân mà lập. Khi đã quyết chí làm điều nhân rồi, việc lớn đối với quốc gia xã
hội thì hằng ngày lo đem lòng nhân mà phục vụ cho đồng bào dân tộc, việc nhỏ
với bản thân thì làm sao cho lương tâm mình khỏi bị hư hỏng, tư đức mình khỏi
bị lu mờ. Hạng người như vậy dù chưa làm được việc nhân chứ chắc không bao giờ
phạm vào điều ác.
Muốn đạt được đức nhân không phải trông cậy
vào ai bên ngoài, mà chính đức nhân ấy ở sẵn trong lòng của mọi người mà trời
đã phú cho. Muốn làm được đức nhân ta phải biết: “Khắc kỷ, phục lễ”. Đức Khổng
nói: “Nhứt nhựt khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên”. Khắc kỷ là trừng trị
gọt bỏ hết cái bịnh tư dục của mình, phục lễ là hồi phục lại được chân lý của
trời ở tại lòng mình. Kỷ là cái thân của ta, thân ta gồm có: Mắt để thấy, tai
để nghe, mũi để ngửi, miệng để nói, thân để làm. Nay muốn khắc kỷ thì chớ dòm
ngó những điều phi lễ, tai chớ nghe những gì phi lễ, miệng chớ nói những điều
phi lễ, thân chớ làm những công việc phi lễ, ta phải đoạn tuyệt những điều phi
lễ thì tức khắc hồi phục được lễ. Phục được lễ thì thiên lý sẽ xuất hiện ngay
tại lòng ta, ta sẽ thấy Tâm tức Nhân, Nhân tức Tâm, cho nên muốn lòng ta có
nhân thì phải khắc được kỷ.
Thế nào là Trí?- Trí là người có hiểu biết do
học tập, kinh nghiệm mà có. Người Trí suốt đời chăm chỉ làm việc nghĩa phục vụ
cho đồng bào dân tộc, đặt quyền lợi tổ quốc lên trên cá nhân, gia đình (Vụ dân
chi nghĩa). Việc trong thiên hạ có nhiều việc xét ra rất đúng với chân lý nhưng
không thích hợp với hoàn cảnh, có nhiều việc đúng với đạo lý nhưng trái với xu
hướng thời đại, trái với thế tục nhân tình, thuận theo lẽ trời lại nghịch theo
thời thế, cho nên người Trí là người “Thức thời vụ”, hành động chỉ vì nghĩa lý
chứ không phải vì quyền lợi, hợp với lòng nhân đức và đạo Trung Hòa.
Thế nào là Dũng? – Đức Khổng nói: Hễ người có
đức Nhân tất nhiên có chí khí mạnh, nếu người chỉ có sức mạnh mà thôi thì chắc
là không có đức nhân (Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân). Xưa
nay người ta lầm tưởng người có đức nhân là người hiền lành nhu nhược, gặp việc
nghĩa không dám làm, nhưng biết đâu người Nhân lại rất có Dũng, can đảm, điềm
đạm mà rất nghĩa liệt, hễ thấy việc nghĩa điều thiện thì cứ làm, dù súng gươm
ngăn cản đe dọa họ cũng không sợ, thập tử nhất sinh họ cũng không lui bước, dù
đến “sát thân thành nhân” họ cũng hăng hái làm cho kỳ được. Vì vậy, nên nói:
“Nhân giả tất hữu dũng”.
Để tóm tắt bài học này, chúng ta nên hiểu
câu: “Kiến nghĩa bất vi vô Dũng giã” – Nghĩa là thấy việc nghĩa to lớn đáng làm
mà sợ chết không dám làm, ấy là người vô Dũng đó vậy. Ai muốn làm người quân tử
Thánh Nhân, nên để tâm học tập rèn luyện cho được ba đức tính trên mới đủ tài
đức tô điểm non sông đạo lẫn đời.
NHÂN QUẢ VÀ LUÂN HỒI
Nhân quả và
luân hồi là luật thiên nhiên của Trời Đất, nó vốn bất di bất dịch và cũng không
thể vi phạm được, mặc dù tin tưởng hay không. Người thế gian chẳng hề chối cãi
hay trốn tránh được. Hễ tạo nhân nào thì tiếp nhận quả ấy, lành dữ báo ứng
không sai.
Luật nhân quả và luật luân hồi, khởi thỉ từ
trong cơ tạo Đoan, tiếng thông thường gọi là Đạo. Vậy nên hễ muốn lý hội Luật
Nhân Quả và Luân Hồi, chúng ta nên nghiên cứu Vũ-Trụ và nhân sanh. Phương pháp
ấy gọi là xem sắc mà biết không, xem hình mà định bóng kia vậy.
Vũ trụ là gì? Vũ trụ là một bầu trời đất gồm
hai phần không gian và thời gian. Không gian vô biên, vô tận là thượng tầng bí
pháp của mọi quyền năng thiêng liêng, giữ vững cơ định nhân quả. Thời gian vô
thỉ, vô chung là hạ tầng cơ thể súc tích đủ mọi khí chất. Không gian và thời
gian phối hợp cơ tạo sanh muôn hình.
Theo triết học cận kim mà luận, trong bầu Vũ
trụ có một điển lực vô cùng mạnh mẽ, tập trung cả tư tưởng, tình cảm thành một
khối tinh thần vô song, có ảnh hưởng đến nhân loại. Đạo là máy âm dương chuyển
luân không ngừng, khối tinh thần vũ trụ theo đó mà vận hành. Rồi quả nào theo
nhân nấy mà sanh thành ra thế gian và khi quả đã mãn, vạn vật đều bỏ xác đặng
trở về với Đạo. Để rồi tùy tiền duyên mà sanh ra hậu quả khác nữa.
Vậy chúng ta hiểu rằng, thời gian phải chịu
luật thúc đẩy của không gian mà biến sanh muôn hình vạn trạng. Hoặc nói thời
gian tiếp nhận luật định nhân của không gian, rồi biến sanh kết quả và khi quả
mãn, thì vạn vật bỏ xác đặng trở về với không gian. Cũng vì thế mà vạn vật phải
sanh sanh, tử tử vô cùng. Chẳng những nhân quả quyết định kiếp người mà họa
phước, buồn vui trong kiếp hiện tiền cũng do luật nhân quả thưởng phạt nữa. Đó
là điểm quan trọng mà người đời nên nghĩ lại.
Kinh điễn Tam Giáo giảng giải luật nhân quả
và luân hồi rất rộng. Chúng ta nên theo đó mà nghiên cứu thêm lên, để giúp lẫn
nhau trên đường lập vị tấn hóa. Nghiên cứu vạn vật do ba yếu tố mà sinh thành.
NHÂN DUYÊN QUẢ
KINH Phật gọi tắt đó là nhân quả, thường mượn
sự trồng đậu để miêu tả luật nhân quả, đại để như nói rằng: Hột đậu gieo xuống
đất hiệp với đất, nước, gió và hơi nóng mặt trời, rồi cây sanh trái đậu khác. Nếu
ghép việc trồng đậu này vào luật nhân quả mà giải nghĩa thì chúng ta hiểu:
- Hột đậu là Nhân.
- Đất, nước, không khí và
hơi nóng mặt trời là Duyên.
- Trái đậu sanh ra là quả.
Nhân-Duyên-Quả hiệp nhau thì cơ sanh hóa
thiệt tướng. Nếu người lấy hột đậu mới mà gieo nữa, thì nó cũng theo luật nhân
quả mà sanh hóa nữa. Luật tự nhiên như vậy, nên cơ sanh hóa không bao giờ cùng
tận.
Bây giờ chúng ta lấy việc trồng đậu nói trên,
để làm phương châm nhận định luật nhân quả đối với kiếp người. Chỗ này chúng ta
hiểu rằng, người nghĩ lành, nói lành và làm lành thì phước trả lại. Nghĩ ác,
nói ác, làm ác thì họa trả lại.
Thử hỏi tại sao có sự báo ứng đó. Như đã nói
trên, trong bầu vũ trụ vốn có một khối tinh thần vô song, can hệ đến nhân sinh
thì khối tinh thần ấy là Duyên. Còn việc làm lời nói, ý nghĩ của người sau khi
mãn thời kỳ hoạt động rồi, biến thành điễn lực, lưu chuyển trong khối tinh thần
của vũ trụ đặng tái sanh nữa. Lấy việc báo ứng này mà khép vào luật nhân quả
đặng suy nghiệm thì chúng ta thấy:
- Việc làm, lời nói, tư
tưởng là Nhân.
- Khối tinh thần của vũ trụ
là Duyên.
- Nhân Duyên hiệp lại thành
ra tư tưởng khác là Quả.
Rồi tư tưởng này trở lại thành nhân, để đặng
sanh tư tưởng khác nữa là Quả. Loài người có thể làm Tiên Phật và cũng có thể
mang lông đội sừng, cũng vì tiền nhân báo hậu quả đó mà ra.
Cổ nhân nói: Phước theo sau việc làm, họa
theo sau việc dữ cũng như bóng với hình.
Như vậy nếu người ta không biết ngăn ngừa,
thì nhân này sanh quả nọ, quả nọ lại sanh nhân kia. Nối liền nhau thành một
đoàn dây DUYÊN NGHIỆP, buộc trói chơn hồn vào trong cái máy luân hồi, hết sanh
rồi tử, hết tử rồi sanh, sanh sanh tử tử không biết đâu là bờ bến.
Vậy rất mong những ai, muốn ra khỏi bờ sanh
tử luân hồi, cần phải biết sự sống và sự chết. Nay có vần thơ:
Học Đạo yếu tri
sanh tử sự,
Bất tri sanh
tử mạc cầu Tiên,
Năng tri sanh
xứ, năng tri tử,
Khứ trụ vô câu
nhậm tự nhiên.
DỊCH:
Học Đạo phải
rành lẽ tử sanh,
Chớ cầu Tiên
Thánh nếu chưa rành,
Hiểu rành được
lẽ sanh cùng tử,
Trói buộc cổi
xong Đạo đạt thành.
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Sau đây chúng tôi trích một bài kinh nói về
12 nhân duyên lưu bổ trong 3 đời, nhân duyên lưu bố trong ba đời, âu cũng giúp
thêm để rõ kiếp người đối với luật thiên nhiên Trời Đất.
HAI NHÂN ĐỜI QUÁ KHỨ
1- Vô minh nghĩa là hôn mê.
2- Hành nghĩa là vọng động.
Bởi có hôn mê dấy lên làm chơn tánh tối tăm
mà sanh vọng động. Sự đầu kiếp khởi đoan từ một vô minh rồi sanh thức mà chính
cái thức ấy vào trong thai bào, hiệp với tinh huyết cha mẹ mà cấu sanh hài nhi.
NĂM QUẢ ĐỜI HIỆN TẠI
3- Thức nghĩa là biết.
4- Danh sắc nghĩa là có tên và có hình.
5- Lục nhập nghĩa là sáu cửa vào tức là
sáu giác quan nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
6- Xúc nghĩa là xúc động.
7- Thọ nghĩa là nhận lấy.
Có hình hài thì có danh sắc, tức là có tên và
vật thể, mà hễ có tên và vật thể, thì có sáu giác quan. Đến thập ngoạt hoài
thai đứa hài nhi ra đời. Nhục thân càng ngày càng khôn lớn, lục căn theo đó mà
giao tiếp với lục trần: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục căn sinh ra lục
thức là: Nhãn, Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý (Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức, ý thức).
Sáu thức biết phân biệt tốt xấu, hơn, kém tức
nói rằng: Lục nhập sanh lục xúc, mà hễ có xúc động thì bản thân nhận chịu tức
là xúc sanh thọ.
BA ĐỜI HIỆN TẠI
8- Ái nghĩa là yêu tức là lòng ham
muốn.
9- Thủ nghĩa là chấp giữ.
10- Hữu nghĩa là có, tức là vật chất.
Có nhận chịu rồi sanh lòng ham muốn, có ham
muốn rồi sanh lòng chấp giữ, mà hễ chấp giữ thì có hình thể. Bởi đời hiện tại
tạo nhân cho nên mới có quả cho đời vị lai.
HAI QUẢ ĐỜI VỊ LAI
11- Sanh nghĩa là sanh ra kiếp người.
12- Lão nghĩa là già chết.
Có hình thể thì phải có sanh, mà hễ có sanh
thì phải có già chết. Số 12 nhân duyên, nếu kể xuôi như trên thì như thế, còn
nếu đảo ngược lại khởi đầu từ già chết kế đến sanh. Như nói già chết mới sanh,
mới có hình thể v.v…
Mặc dầu nói xuôi hay đảo ngược thế nào, rồi
chúng ta cũng thấy 12 nhân duyên nối chuyền và liên kết nhau. Cái này vừa làm
nhơn cho cái kia, vừa làm quả cho cái nọ. Nhơn kia nối liền quả nọ mà trói buộc
con người, trong cái máy luân hồi hết sanh rồi tử, hết tử rồi sanh, tử sanh
không lối thoát.
Chữ luân hồi nghĩa đen là lăn qua, lăn qua
mãi cũng như cái bánh xe lăn tròn kia vậy. Nói về Đạo Pháp, luân hồi là luật
đầu thai chuyển kiếp của nhân loại. Kiếp này làm người rồi kếp sau làm Tiên
hoặc thành người trở lại, hoặc thành ngạ quỹ hay súc sanh. Tấn hóa hay thối hóa
là tùy luật nhân quả quyết định.
Luật luân hồi và nhân quả đại để là thế, cả
chúng sanh đều theo luật này mà lưu chuyển khắp Càn Khôn, đặng học hỏi luật
Trời và sau cuộc tuần hoàn, sẽ được trở về với cội SANH là Trời vậy.
Nghĩa là sau khi được trọn lạnh trọn sáng thì
chơn hồn trở về Đấng Tạo Hóa. Nhưng có điều khó cho người phàm, luật thiên
nhiên vốn siêu hình, người ta dùng ngũ ngũ quan để khảo sát thì không rõ đặng.
Thành có người bán tín bán nghi, rồi không cố gắng tuân hành mà gây nên nghiệp
chướng.
Có kẻ tin luật trời với một cách mù quáng,
rồi ăn ở theo tà thuyết dị đoan. Thái quá và bất cập đều không theo được đạo
cả. Đức tin chân chính là tiên phong của kẻ tìm học Đạo Pháp. Chúng ta biết
rằng, dùng ngôn ngữ để mô tả chân lý thì không thể nói rõ được.
Ấy vậy, nên soạn thảo GIÁO LÝ HẠNH ĐƯỜNG sơ
cấp này, chẳng qua vén màn suy gẫm, rồi các bạn phải tự mình tìm kiếm lẽ phải
để lập tín tâm của mình vậy.
Đức PHẬT TỔ THÍCH CA đã
mãn hạn ngày 8 tháng 4 năm Bính Thân.
THI
PHẬT TỔ THÍCH CA đã mãn kỳ,
Chuyển giao DI LẶC nắm huyền
vi
Quảng khai ĐẠI ĐẠO quy Tam
Giáo
Thống nhất chơn truyền hiệp
Ngũ Chi,
Tiền định Hạ Ngươn cơ tái
tạo
Phục hồi Thượng cổ máy thiên
thi
Tuyển phong Phật vị Long Hoa
hội,
Thừa lịnh Ngọc Hư đấng trị
vì.
GIÁC MÊ CA
1. Từ mở mang Trời đất những nay
Cũng lắm cuộc
tang thương canh cải
Ngươn ba,
ngươn tuần hườn dựng lại (1)
Hội mười hai
cho đủ mới rằng.
2. Cõi hồng trần còn hãy lăn xăn
Người lành
phải chịu bề cay đắng
Chữ Tam Đạt (2)
thì công phải gắng
Muốn lên bờ
phải thoát biển mê
3. Học Phật gia niệm chữ Từ Bi
Tu Tiên Đạo
giữ câu Cảm ứng
Trung Thứ này
Nho làm bằng chứng
Phật Thánh
Tiên Tam giáo một lòng
4. Dọn chông gai đường cả mới thông
Chịu tân khổ mới
là thượng trí
Người Trượng
phu phải gìn Tam uý (3)
Đấng anh hùng
đừng bỏ Cửu tư (4)
5. Đạo Tiên Thiên lập đãnh an lư (5)
Hẳn cũng có
trong hư mà thiệt
Tánh tòng bá,
phải y một tiết
Nếu đổi dời
khổ đọa trầm luân
6. Nhắn với ai Qui, Giới phải tuân
Một phen khổ,
muôn đời thong thả
Nợ tiền khiên,
buổi nầy phải trả
Nợ trả rồi
ngoại vật thảnh thơi
7. Mặc tình trong Trời Đất vui chơi
Năm hồ rộng
Thần Tiên thú lạ
Muốn nên
người, phải bền chí cả
Công có dày,
thì quả mới cao.
8. Dốc lòng đền chín chữ Cù lao (6)
Hành Thiên đạo
dương danh ư hậu thế
Ấy vậy mới Tứ
Ân bất phế (7)
Hễ đạo người
đừng bỏ nghĩa nhân
9. Làm sao cho biết thủy, biết sơn
Như Hàm Cốc,
cùng Ông Trương Tử
Công danh lợi,
thì mình phải xử
Cuộc phù hoa
nhắm cũng cheo leo
10. Tần Thủy Hoàng tiếng hãy còn nêu
Thâu lục quốc,
Phần thư khanh sĩ (8)
Núi Thú Dương
Di, Tề danh để
Thà một lòng
tiết nghĩa mà thôi
11. Làm chi như Tần, Ngụy cao ngôi
Thanh sử tạc,
muôn đời cho tệ
Đậu Yên Sơn,
ngũ chi chi quế (9)
Bởi vì chàng
cãi hóa tự tân (10)
12. Người đời lấy đức tu thân
Đừng học thói
vua Tần bất nghĩa
Trắc ẩn chi
tâm tùng thiên lý
Nỡ lòng nào
giết vật cho đành
13. Người úy tử, vật cũng tham sanh
Gẫm Người Vật,
máu xương không khác
Thấy thưở
sống, chẳng đành thấy thác
Lời Mạnh Kha,
sách để vẫn còn
14. Xin hiền lương xét lại mà coi
Sao là phải,
sao là chẳng phải
Sách có câu: Quá
Nhi bất cãi
Tử Lộ xưa,
nghe lỗi thì mừng
15. Võ Vương làm thiên hạ chi quân
Còn phải: Văn
thiện ngôn tắc bái
Nói ra thì tai
nghe cũng trái
Bởi vì nhơn sự
cách Thiên cơ
16. Việc thị phi, tai phải làm ngơ
Học Nhan-Tử,
đai cơm bầu nước
Đạo muốn
tường, tỏ bày sau trước
Cách chỉ mành,
nào có xa đâu
17. Cõi Nam đà, mở rộng cữa lầu
Đèn trí huệ,
hào quang chói hiện
Thuyền Bát Nhã,
nghênh ngang bốn biển
Nước Ma Ha rửa
sạch ba lòng (11)
18. Rượu Huỳnh Tương, mời khách Tây Đông
Ngựa không
bóng, rước người Nam Bắc
Đường sau
lưng, sẽ bày ra trước mặt
Lữa không mồi,
cháy khắp non sông
19. Muốn cho thấy đặng Chủ Nhơn Ông
Non vô ảnh, âu
tầm mới hãn
Trong hang
thần (12), đừng cho gián đoạn
Độc Mộc kiều,
có gã Huỳnh Nương
20. Hỏi nơi kẻ mua rượu Huỳnh Tương
Đặng một chén,
uống đà bất lão
Việc tu hành
phải say mùi Đạo
Nếu bơ thờ,
quả Đạo khó trông
21. Tiếng đàn thì, tai lắng cho thông
Chơn như thể,
giai không ngũ uẩn (13)
Thập Tam ma (14)
khuyên đừng lấp lửng
Gươm huệ mài
trừ nó mới an
22. Giảng cho thông Tứ Cú Kim Cang (15)
Thì mới thấy Bản
Lai Diện Mục
Mang xác thân
tuy còn ở tục
Lòng cho
riêng, mới gọi là Thần
23. Ai còn mang những thói Tham, Sân
E khó khỏi
Luân hồi lục đạo (16)
Họa phước vô
môn vi nhơn tự triệu
Muốn hy hiền,
phải liễu phàm tâm
24. Đạo Như Lai, vô thượng thậm thâm
Biển cho lặng,
Minh Châu mới hiện
Ngọc Cửu Khúc,
gắng công dồi luyện
Tầm thư hùng,
hái thuốc non Nam
25. Mười hai giờ, huyền hộ (17) phải tham
Thiên Giao Thái
(18), Pháp Luân Thường chuyển
Hùm lên non,
rồng kia xuống biển
Đầy ba xe chở
những vàng ròng
26. Làm sao đặng Lôi Phục Thiên phong (19)
Mãn sáu hiệp,
thâu vào lấp kín
Thuốc ba phẩm
(20), công phu luyện chín
Muốn đơn thành
văn võ phải toan
27. Ai dốc lòng lên núi Linh San
Đóng sáu cữa,
cho bền then khóa
Cửu cửu (21) ma,
thử lòng vàng đá
Ấy mới rằng,
biết giả, biết chơn
28. Thầy Huyền Trang thiệp thủy, đăng sơn
Trãi tám mốt,
Lôi Âm mới tới
Lòng Bồ Đề,
không dời, không đổi
Tánh yêu ma,
còn tiết nhục phòng
29. Bởi vì trong Qui, Giới chưa xong
Oan khuyên
nặng, năm Giềng khó dứt
Đạo muốn cao,
phải bồi chí đức
Đạo đức toàn,
quỉ phục Thần khâm
30. Trời đâu mà có phụ Đạo Tâm
Nghiệm kim, cổ
người lành mắc nạn
Việc tu hành,
phải soi cho rạng
Nếu không minh
ắt chẳng đắc thành.
31. Đạo Phật Tiên, có chí thì thành
Người bao nỡ
thỉ cần, chung đãi.
Nương Pháp
thoàn, mà qua khổ hải
Sóng muôn
trùng, còn đoái làm chi
32. Bền một lòng, niệm chữ A Di (22)
Sau cũng đặng,
thảnh thơi muôn kiếp
Máy quang âm
lẹ thoi như nhiếp
Người trăm
năm, chẳng khác chiêm bao
33. Cõi bờ nầy, sóng bủa lao xao
Cuộc danh lợi,
gẫm như bọt nước
Đọc kinh sách,
nhớ Người đời trước
Ông Thạch
Sùng, giàu có muôn xe
34. Qua đời nầy, tiếng hỡi còn nghe
Sao chẳng thấy
trường sanh thọ hưởng
Hàn Tín xưa
mưu thần chi tướng
Cũng chưa nên đáng
mặt anh hùng
35. Người ở đời lấy đó mà răn
Kim như thị, Cổ
hà như thị
Xử thế phải
biết liêm, biết sĩ
Tu thân thời,
vô lự, vô ưu
36. An một lòng mao ốc thảo lư
Đừng học thói
triêu Tần, mộ Sở
Đường Huỳnh
Đạo, Trời đà rộng mở
Khách Tây du
sớm nhớ quày đầu
37. Kiếp duyên khương, sáu vạn dư thu
Vưng Thiên
mạng, kíp truyền y bát
Sóng ái hà,
khuyên người kíp thoát
Khỏi lưới
trần, cực lạc mới xinh
38. Cuộc diêm phù nhiều nỗi nhục, vinh
Không lại Có,
giàu sang dời đổi
Thú thảnh
thơi, mau đồng men dõi
Đất Bồ Đề, sớm
tối xuê xoang
39. Chữ danh lợi, sao bằng chữ Nhàn
Cữa Bát Nhã,
vào ra thong thả
Trống đại hùng
(23), gôm thâu ý mã
Chuông Linh
Sơn (24), hơi tỏa tâm viên
40. Ngọc Mâu Ni khá để khinh truyền
Kinh bạch tự,
há đâu vọng tiết
Địch không lỗ,
có duyên mới biết
Đờn không dây,
vô phước khó nghe
41. Rượu đề hồ, chứa để đầy ve
Say một cuộc,
bất tri nhơn sự
Ngâm chỉ huyền,
say cùng Ông Lữ
Đọc tĩnh mê,
say với Ông La
42. Kinh Huỳnh Đình, rảnh đọc năm ba
Vô bồng Tháp,
buồn xem Tạo Hóa
Ngó Nam Lảnh,
vui màu tòng bá
Nhìn Bắc Hà,
rùa cá nhởn nhơ
43. Chốn đơn phòng bày tỏ huyền cơ
Mặc dầu kẻ
ngộ, cùng không ngộ
Có duyên gặp
Tam Kỳ Phổ Độ
Muôn đời còn
Tử Phủ (25) nêu danh
44. Ba ngàn công quả, đặng viên thành
Đơn Thơ Chiếu,
hiển vinh Thiên tước
Chín phẩm sen
vàng, khai thấy Phật
Cửu huyền Thất
tổ (26), đặng siêu thăng./.
HẾT
1- Ngươn: Khởi đầu,
bắt đầu một cuộc tuần hoàn cả Trời Đất. Có ba ngươn là Thượng-Ngươn,
Trung-Ngươn và Hạ-Ngươn. Mỗi một ngươn là 12 vạn 9 ngàn 600 năm. Theo
Thiệu-Khang-Tiết tính cứ 12 giờ là một ngày, 30 ngày là một tháng, 12 tháng là
một năm, 30 năm là một thế, 12 thế là một vận,30 vận là một hội, 12 hội là một
ngươn.
Giờ, ngày, tháng,
năm, thế, vận, hội, ngươn là 8 chặng thời gian từ gần đến xa.
2. Tam Đạt: Ba đức
của người quân tử là Nhân, Trí, Dũng. Đức Khổng Tử nói: Đạo quân tử có 3 điều
mà ta không hay làm được.
1) Có Đức Nhân chẳng việc gì lo buồn.
2) Có Đức Trí chẳng việc gì mà lầm.
3) Có Đức dũng chẳng việc gì mà lo sợ.
(Quân tử đạo giả
tam, ngã vô năng yên, nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ).
3- Tam úy: Ba điều
sợ
1- Kiêng sợ mệnh Trời (chân lý)
2- Kiêng sợ những người có đạo đức lớn.
3- Kiêng sợ lời nói của Thánh Nhân.
(Quân tử hữu tam
úy: Úy thiên mạng, úy đại nhân, úy thánh nhân).
4- Cửu Tư: Chín
điều lo của người quân tử (Quân tử hữu cửu tư) thị tư minh, thính tư thông, sắc
tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phận tư nan, kiến
đắc tư nghĩa.
Người quân tử tất
phải có 9 điều lo nghĩ.
1-
Mắt dòm thì phải nghĩ sao cho được sáng.
2-
Tai nghe thì nghĩ sao chi được rõ.
3-
Nhan sắc thì nghĩ sao cho được ôn hòa.
4-
Dung dáng thì nghĩ sao cho được trang nghiêm.
5-
Nói năng thì nghĩ sao cho được ngay thật.
6-
Làm việc thì nghĩ sao cho được kính cẩn.
7-
Có điều nghi ngờ thì phải kiếm cách hỏi.
8-
Có điều gì giận thì phải nghĩ đến hậu hoạn.
9-
Thấy được lợi thì phải nghĩ ngay đến có hại đến việc nghĩa. Đủ 9 điều ấy là
người quân tử.
5- Lập đảnh an lư:
Đảnh là đỉnh có ba chân dùng để cắm nhan trên bàn Tiên Thiên. Lư là hư hương có
bốn chân để bàn Hậu Thiên dùng để xông trầm khi cúng. Đảnh 3 chân tượng trưng
Trời có 3 cõi Thái-Thanh, Thượng-Thanh, Ngọc-Thanh. Lư có bốn chân tượng trưng
cho đất có 4 phương Đông-Tây, Nam-Bắc. Trời đất hiệp lại thành bảy thể là thất
bửu. Người đi tu phải biết an lư lập đảnh, tức là an thân lập mạng hay tu tâm
luyện tánh.
6- Cù lao: Công cực
khổ, khó nhọc của cha mẹ nuôi con.
7- Tứ ân: Ân trời
đất, ân cha mẹ, ân Thầy dạy và ân Tổ Quốc, xã hội.
8- Phần thư khanh
sĩ: Đốt sách chôn học trò, chỉ Tần-Thủy-Hoàng chôn sống trên 400 học trò ở
Hàm-Dương.
9- Đậu yên sơn, ngũ
chi chi quế: Tích ông Đậu yên sơn, sanh năm người con trai được sự ứng mộng của
cha, phải biểu tu thân tích đức bố thí, thì năm người con sẽ nên danh. Ông vâng
lời cha phát nguyện làm lành, lấy nghĩa phương giáo tử. Sau năm người con của
ông học hành rất tiến. Ông có trồng năm cây quế trước sân, đến khi năm đứa con
trai ông vào trường, thì đều được danh đề kim bảng, đồng thời năm cây quế cũng
cao lớn sum xê, nên người truyền là: “Ngũ quế đường khai”.
10- Cải quá tự tân:
Tự sửa những điều lầm lỗi, tự mình đổi mới.
11- Ba lòng: Là cái
Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Hay là tâm trí thức, tâm tình cảm, tâm dục vọng.
12- Hang thần: Là
chỗ Thần ở có 3 nơi là: Thiên cốc, Ứng cốc, và Linh cốc.
13- Ngũ uẩn: là 5
điều chất chứa sâu kín.
1- Sắc: Sắc tướng, những vật có hình trạng có thể thấy.
2- Thọ: Chịu lấy, chứa đựng, chịu nhận.
3- Tưởng: Suy nghĩ, tưởng nhớ.
4- Hành: Hành động, thi hành.
5- Thức: Hiểu hết (kiến giải), phân biệt.
Nhà Phật cho năm
món ấy nó tích góp lại, che lấp mất cái chân tính của con người.
14- Thập tam ma:
Chỉ cho sáu dục, bảy tình. Sáu dục do lục căn sanh ra là Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý (Mắt, tai, lưỡi, thân xác và ý chí). Sáu dục là sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp. Bảy tình là: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cụ. (Mừng, giận, thương, ghét,
buồn, vui, sợ).
15- Tứ cú kim cang:
Là bốn câu kệ đầu của Kinh Kim Cang.
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa.
16- Lục đạo: Sáu
đường đi luân hồi chuyển kiếp, Cõi Thiên, cõi Nhân, Cõi Atula, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh.
17- Huyền hộ: Cửa
của nội ngoại thận, ở tại thận có hai cái cửa: Huyền môn và tấn hộ. Huyền môn
thông với huyền quang. Tấn hộ thông với dịch hoàn. Phép tu phải biết xuất huyền
nhập tẫn.
18- Thiên giao
thái: là quẻ Địa-Thiên thái trong Kinh Dịch, có nghĩa là Trời Đất giao hòa phát
sanh vạn vật (Thiên khai, Địa tịch, Nhân sinh).
19- Lôi phục thiên
phong: Hai quẻ Địa- Lôi Phục và Thiên-Phong cấu, dạy cách tý tấn dương, ngọ
thối âm.
20- Thuốc ba phẩm:
Có câu thượng dược tam phẩm, Thần giữ Khí Tinh là ba món thuốc báu là
TINH-KHÍ-THẦN của người.
21- Cửu cửu: Số
chung thủy của Càn-Khôn.
22- A-DI: Tu Đạo
Phật thường niệm 6 chữ gọi là: Lục tự Di-Đà. Nam-mô A Di Đà Phật. Mỗi chữ chỉ
phần tâm pháp như sau:
NAM: Ấy Nam-Phương lửa Bính
Đinh, (Mách điển hỏa luân xa có 12 cánh).
MÔ: Là chỉ rõ vật
vô hình (Cung Nê Hườn)
A: Gồm Nhâm thủy an
nơi thận (Thủy Luân xa có 10 cánh)
DI: Phải chặc gìn
ba báu linh (Tinh-Khí-Thần).
ĐÀ: Ấy màu vàng gồm
tất cả (Kim qung khí, áo cà sa, hay hào quang).
PHẬT: Hay thanh
tịnh ở trong mình (Phật hay Thượng-Đế ở trong lòng).
23- Trống đại hùng:
Trong Đạo có Lôi Âm cổ, đó là biểu tượng hai lỗ mũi.
24- Chuông Linh
Sơn: Là chuông Bạch-Ngọc, biểu tượng cho hai lỗ mũi.
25- Tử phủ: Là hai
hệ tinh tú, tử vi và thiên phủ.
26- Cửu Huyền Thất
Tổ: Bảy vị Tổ và chín đời. Bảy vị tổ là: Thủy Tổ, Viễn Tổ, Tiên Tổ, Cao Tổ,
Tằng Tổ, Tổ Phụ, Phụ Mẫu. Chín đời từ Cao Tổ đến Huyền Tổ, trước mình có bốn vị
là: Cao-Tổ, Tằng-Tổ, Tổ-Phụ, Phụ-Mẫu, sau mình có bốn đời là: Tử, Tôn,
Tằng-Tôn, Huyền-Tôn. Lấy thân mình là hiện tại, trước ta có 4 đời, sau ta 4 đời
cộng tất cả là chín đời.
TAM-KỲ
THÁNH-HUẤN
-----oOo-----
Giáng bút tại Cao-Thiên-Đàng (Kiên Giang)
Vào ngày 17,18 tháng 6 năm Quý-Dậu năm 1933.
THI
KHƯƠNG từ lãnh mạng hiệp Chư-Hiền
THÁI-Cực-Đồ dùng báu tự nhiên
CÔNG dung công-tâm trừ quỉ-mỵ
GIÁNG đàn chấn-chỉnh cuộc An-Thiên.
Tịnh đàn tiếp giá ĐỨC-CHÍ-TÔN
NGỌC là vật báu của Trời sanh
HOÀNG bút Châu-Phê chữ đã rành
ĐẠI cuộc AN-THIÊN rồi Kỷ-Niệm
ĐẾ ân truyền xá kẻ Làm-Lành
---------
THI BÀI
1- Nầy con trẻ có duyên tìm Đạo,
Giữ lời Thầy dạy bảo chớ sai;
Minh-mông
biển rộng sông dài,
TRỜI che ĐẤT chở chẳng hai con đường.
ANH-EM
Hoà-Thuận Nhịn-Nhường,
Đừng lòng ích-kỷ Sâm Thương rã-rời.
*
2- Kể từ thuở ĐẤT TRỜI gây dựng,
Sanh loài người chí nhẫn tới nay;
Nhiều
phen giáng thế chỉ bày,
Tùy theo thời-cuộc cũng THẦY mà thôi.
Rằng tuy
khác biển cách vời,
Hễ ở dưới TRỜI thì một Mẹ-Cha.
*
3- Tuy khác tiếng, khác da, khác giống,
Nhưng cũng đồng sự-sống như nhau;
Dưới
chân cho đến trên đầu,
Tay
chơn máu thịt chỗ nào khác đâu?
Ớ con
khắp cả Hoàn-Cầu,
Trước đều một rún một nhau một nhà.
*
4- Từ Vô-Thỉ lịnh Cha đã dạy,
Dạy các con đến cõi Trần-Gian;
Mở-mang
khắp cả Hồng-Hoàn,
Giúp thay Bàn-Cổ Tam-Hoàng lập công.
Công-thành
qui-vị thưởng phong,
Đừng cho đến nỗi bụi hồng vướng mang.
*
5- Cung-Bạch-Ngọc hai ban lựa nhón,
Chọn con nào chưa trọn CHƠN-NGƯƠN;
Ban cho
nhứt điểm LINH-QUANG,
Giáng phàm Công-Quả hoàn toàn Bổn-Lai.
Lập xong
danh phận TAM-TÀI,
Trở về hớn-hở lâu dài NGỌC-KINH.
*
6- Chốn NGỌC-KINH còn gìn nhiều bực,
Đặng chăm-nom đốc sức CÔNG-TRÌNH;
Giúp
công hóa-hóa sinh-sinh,
Phong, Vân, Vũ, Lộ, Đẩu, Tinh,
Huyền-Hoàng.
Âm-Dương
hàn, thử tuần-hườn,
Cầm giếng mối chánh, CÀN-CANG giúp THẦY.
*
7- Nối Nhơn-Hoàng đổi thay Thánh-Ý,
Mến Hồng-Trần quên nghĩ Ngọc-Kinh;
Tánh-Phàm
chen lộn vào mình,
Thất-tình,
lục dục, biến thành quỉ-vương.
Cửa nhà
nấu-nướng điểm-trang,
Trau-giồi xác thịt, quên đàng
Thiêng-Liêng.
* * *
NHỨT KỲ PHỔ ĐỘ
8- Muốn cho trẻ có duyên trở lại,
THẦY phải sai ba phái NHỨT-KỲ;
DI
ĐÀ-THÁI THƯỢNG-PHỤC HI,
Giúp-phần
Phổ-Độ duy trì Đạo Cha.
THÁI-THƯỢNG sửa tánh phàm-tà,
PHỤC-HY: Dịch-Quái, DI-ĐÀ Phá-Mê.
*
9- THẦY cũng dạy đề huề TIÊN-THÁNH,
Trước cùng sau lãnh gánh giáng phàm;
Đông-Tây,
Nam Bắc gia tâm,
Năm-Châu
em dại rán tầm cho ra.
Dắt về
cho tận mặt CHA,
Đai phong
an hưởng Thánh-Tòa Ngọc-Kinh.
*
10- Còn những kẻ chưa thìn TÂM-TÁNH,
Lưu phàm-trần khổ-hạnh TU-THÂN;
Nước non
bồi-bổ Tinh-Thần,
Ngươn-Chơn
un-đúc bổn-căn trau-giồi.
Đạo
thông sẽ trở về TRỜI,
Cùng Cha
sum-hiệp đời-đời an vui.
*
11- Mười hai trẻ được hồi Ngươn-vị,
Dư hằng-hà chẳng kể Chánh-Chơn;
Một lòng
xu-hướng quỉ-vương,
Khinh-khi
ngạo báng sự Nhân-Đức Trời.
Mê sa
ma-quỉ lã-lơi,
Bỏ điều
Minh-Thệ trổ mòi Bàn-Môn.
*
12- Oai Trời định diệt phồn yêu-mỵ,
Giáng Thiên-Tai Hồng-Thủy thao-thao;
Thay
Thầy sửa trị phong-trào,
Nối
Nghiêu có Thuấn lãnh trau Chơn-Truyền.
Thương
đời Tiên-Thánh liền liền,
Giáng
phàm tế-độ luân phiên dạy đời.
*
13- Dư ngàn năm đến đời Thương-Trụ,
Tà loạn Chơn rất phụ lòng Thầy;
Thánh-Nhơn
cho giáng kỳ tây,
Đao-binh
kiếp-số diệt bầy tinh-yêu.
Sa-Tăng
Tội-Ác khó siêu,
Bắt về
giam-đợi Thiên-Điều xử phân.
*
14- Thương Cơ-Phát ân cần diệt bạo,
Phú ngôi Trời dạy Đạo hóa dân;
Phú cho
mười bực hiền Thần,
Lãnh
truyền Đại-Đạo xa gần thế-gian.
Truyền
lần đến cõi Nam-Bang,
Cháu con
Hồng-Lạc vén màng lạy Cha.
*
15- Nhà Cơ-Phát tám trăm năm có,
Truyền Đạo-Trời vô số Huyền-Công;
Hiềm còn
yêu chuộng Thần-Thông,
Hóa lòng vọng-tưởng
chẳng phòng yêu ngôn.
Lần lần
sa lạc Bàn-Môn,
Thần-Tiên
ma quỉ chẳng còn biện phân.
* * * * *
NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ
16- Nhìn thấy trẻ dương trần THẦY ngán,
Chẳng còn chi rằng đáng con THẦY;
Biết sao
cho được giải khuyây,
Nhị-Kỳ
Phổ-Độ nên Thầy phải sai.
Bởi
thương các trẻ miệt-mài,
Trần-gian
ảo-mộng lại hoài Chơn-Ngươn.
*
17- Hoá bốn phách chẳng sờn lao-khổ,
Trắng, Vàng, Đen Phổ-Độ cả ba;
Ấn kia
trước có DI-ĐÀ,
Nay cho
tái thế THÍCH-CA giáng phàm.
THÁI-THƯỢNG
hoá kiếp LÃO-ĐAM,
Truyền
Kinh Đạo-Đức nơi HÀM-CỐC-QUAN.
*
18- Luận dạy việc Kinh-Ban Tế-Thế,
Bởi sanh-dân bỏ phế Luân-Thường;
Kế Châu
cho giáng Tố-Vương,
Ân-Cần
lập kỷ trần-cương dạy đời.
Hiếu-Trung
cội gốc con người,
Trọn điều
Nhơn-Đạo, tuỳ thời TU-THÂN.
*
19- Nơi TÂY-BỘ nhiều lần ĐẠO mở,
QUỈ-VƯƠNG thường phá vỡ ĐẠO-NHÀ;
Phải sai
con MỘT của CHA,
Máu hồng
chuộc tội cả và thế-gian.
Bộ Châu
nào mới mở-mang,
Cũng đều
sai Thánh đến ban Tin-Lành.
*
20- Muốn cho trẻ nhiệt thành nguồn cội,
Cho Sa-Tăng đoái tội lập công;
Con nào
thiệt dạ thính-tùng,
Cõi Trời
dành để vô-cùng sự vui.
Con nào
gian-ác chẳng thôi,
Chiếu lời
"MINH-THỆ" Ngũ-Lôi hành hình.
*
21- Dư một lúc hơn nghìn năm rưỡi,
Biết bao phen vận-hội trở xoây;
Phật-Tiên
lắm lúc châu mày,
Thánh-Thần
nhiều buổi chầu Thầy luỵ rơi.
Rằng con
chẳng những y lời,
Bàn-Môn
Tả-Đạo coi Trời như không.
*
22- Kẻ chẳng kể: Luật công Thiên-Lý,
Kẻ thì theo tà-mỵ dị-đoan;
Xiết bao
kiếp-số tai-nàn,
Hớn qua,
Tống lại, Minh sang, Thanh rồi.
Cãi Trời
thì bị luật Trời,
Trời nào
có dạy cướp ngôi tranh-quyền.
*
23- Con đã dại Thầy yên sao được,
Kiếp Ngũ-Lôi kế dượt gần đây;
Nếu con
tránh được buổi nầy,
Mới được
chầu THẦY Cực-Lạc Tiêu-Diêu.
Nếu con
ma-quỉ tinh-yêu,
Ngũ-Lôi
hoả-kiếp diệt tiêu Linh-Hồn.
* * *
TAM KỲ PHỔ ĐỘ
24- Muốn cho con được tròn tỉnh ngộ,
Đệ Tam-Kỳ Phổ-Độ phải ban;
Xét coi
cả cõi DINH-HOÀNG,
Có Châu
Nam-Thiệm Hồng-Bàng khá khen.
Một lòng
Đạo-Đức tập rèn,
Ít mê vật
chất đê-hèn như đâu.
*
25- Tuy chưa rõ Nhiệm-Mầu Đạo-Đức,
Song có lòng kỉnh Phật thờ Trời;
Linh sai
Tiên-Thánh các nơi,
Giúp
người lầm lạc phục hồi Bổn-Sơ.
Phổ-thông,
dụng báu Huyền-Cơ,
Khải
thông Đại-Đạo trên bờ Nam-Bang.
*
26- Thay Tam-Giáo lập Bàn Tam-Trấn,
Tuỳ theo thời độ dẫn chúng-sanh;
Độ cho
bỏ dữ về lành,
Bỏ điều
tà vạy đừng canh-cãi Trời.
TAM-KỲ
ÂN-XÁ CÁC NƠI,
Hễ biết
nghe lời thì được Qui-Nguyên.
*
27- Phế NGỌC-KINH Nam-Thiên giá hạnh,
THẦY bổn thân thấy cảnh đau lòng;
Các con
RẮN-RẮN, RỒNG-RỒNG,
Coi lời
Tam-Trấn như không chẳng màng.
Lại thêm
bày việc dị-đoan,
Mê sa ma-quỉ
tội tràng vạ lây.
*
28- Thương các trẻ Thầy day cán bút,
Cao-Thiên-Đàng gạn đục lóng trong;
Khuyên
con bỏ tánh cuồng-ngông,
Giàu lòng
Bác-Ái mạnh lòng Từ-Bi.
Đường
ngay con cứ con đi,
Rán tìm
đến chỗ THẦY qui mà vào.
*
29- Lập TRUNG-ƯƠNG, THẦY trao gánh nặng,
Dạy các con dứt hẳn phàm tâm;
Đừng
lòng chia rẽ mà lầm,
Đừng lòng
dại-dột mà cầm rằng khôn.
Xét coi
nội quả KIỀN-KHÔN,
Có ai qua
được CHÍ-TÔN là THẦY?
*
30- Thầy thương xót một bầy con dại,
Kiếp Ngũ-Lôi hiện tại đương giàn;
Thầy
thương Thầy dạy, Thầy than,
Khuyên
con chớ khá ngỗ-ngang lời Thầy.
Ví bằng:
Kiếp-số đến ngày,
Ăn-năn đã
muộn kêu THẦY uổng công.
* * *