Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2012

TÌM HIỂU KHÍ TƯỢNG CÁC QUÁI


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

DỊCH HỌC
TÌM HIỂU KHÍ TƯỢNG CÁC QUÁI
Giáo Sư Ngọc Trường Thanh
THÁNH ĐƯỜNG CAO ĐÀI
Địa chỉ: 18/6 Nguyễn Thái Học, Tuy-Hòa, Phú Yên

 
TỰ LUẬN

Đạo Cao-Đài ra đời tại nước Việt Nam, tính đến nay đã 82 năm (1926-2007). Người đời tưởng đó là nền tôn giáo mới, mới từ hình thức tổ chức, kiến trúc, cho đến giáo pháp giáo quyền.
Nhưng thực tế Đạo được xây dựng trên nền tảng Kinh Dịch đã có trên sáu ngàn năm do Đức PHỤC HY sáng tạo, mà PHỤC HY là tiên tổ của nòi Lạc-Việt.
1. Việc thờ phượng: Quả Càn-Khôn là biểu tượng Trời của Đạo Cao-Đài, nó tròn như trái đất, sơn màu xanh da trời. Trên hết có vẽ Thiên-Nhãn (mắt Trời), mặt trời, mặt trăng, ngôi sao Bắc Đẩu và 3072 tinh tú.
2. Triết lý, giáo lý của Đạo gồm có: Vô Cực, Thái-Cực, Âm Dương, Tam Tài, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Lục Long, Thất Tinh, Bát Quái và Cửu Cung.
3. Tổ chức giáo hội: Chức sắc Hội Thánh hữu hình để thay mặt cho Thầy tại thế gồm có 3112 vị:
Đứng đầu 1 vị Phật là Giáo Tông.
Ba vị Tiên là Ba Đầu Sư.
Ba mươi sáu (36) vị Thiên Thánh tức là 36 Phối Sư.
Bảy mươi hai (72) vị Nhân Thánh tức là 72 Giáo Sư.
Ba ngàn Địa Thánh tức là 3000 Giáo Hữu.
Thầy dạy: “Lần ba này lập Hội Thánh, Thầy dùng Nhứt Phật, Tam Tiên, tam thập lục Thánh, thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ”. Số Chức sắc dựa vào số lý của bài kinh “Ngọc Hoàng Bửu Cáo”:
“Thượng chưởng tam thập lục Thiên, tam thiên thế giới,
  Hạ ốc thất thập nhị địa, tứ đại bộ châu.”
Kỳ lập Đạo này có khác hơn trước là cụ thể hóa Đạo Dịch thành hữu hình để tiện bề nhập thế, đem Đạo vào đời sống nhân sinh xã hội.
Hiện nay, ta nhìn thế giới nhân loại đã thành nhà chung. Càn Khôn dĩ tận thức, nhân loại đã hiệp đồng. Nhờ phát minh Tin Học mạng lưới viễn thông đã trùm lên tất cả, tin học đã mở ra một tầm nhìn bao quát và sự hiểu biết sâu rộng về mọi lĩnh vực sinh hoạt.
Các nhà Tin Học cũng dựa vào lý âm dương sáng tối mà phát minh sáng tạo. Các nhà khoa học chỉ dùng trí khôn thực nghiệm, dùng ý khí chứ chưa dụng THẦN, nên không trị được cái TÂM dục vọng. Tà tâm, ác tâm của nhân loại càng ngày càng phát triển, vô phương cứu chữa. Ngày nay, Đạo Cao-Đài ra đời thờ một con MẮT tức là thờ Chân Thần duy nhất, NHỨT THẦN PHI TƯỚNG TRỊ KỲ TÂM. Khi có ngôi Thần Chủ thì mới diệt được âm thanh, sắc tướng, tâm trở nên hư vô thanh tịnh, dục vọng, hoang tưởng nhờ đó mà tiêu tan. Người tín đồ Cao-Đài phải thấy biết mình có được cái Quyền Tự Chủ và Pháp Tu Thân, đó là quyền pháp cao quý của Trời ban cho, nhờ pháp quyền này mà tu trị thân tâm trở nên thánh thiện.
Người có Thần mới có tánh linh, muốn có tánh linh phải tìm học Kinh Dịch, vì Dịch là một thể linh của cơ tạo hóa. Buổi đời hạ ngươn, nhằm thời kỳ tiêu diệt, nên Thượng-Đế chuyển “Vạn thù quy nhứt bản”, Bát Quái phải quay ngược chiều, nên Đức Hộ Pháp đặt Bát Quái theo vòng nghịch chuyển. Vòng thuận sanh Ly trên Khảm dưới, thành quẻ Hỏa Thủy Vị-Tế. Ngày nay Bát Quái nghịch chuyển, Khảm trên, Ly dưới thành quẻ Thủy Hỏa Ký-Tế, ấy là Đạo âm dương hiệp nhất. Có hiểu Bát Quái nghịch chuyển mới tu đạt Đạo và bảo tồn cơ sanh hóa vạn linh. Học Dịch đừng quá câu nệ hào quái, chữ nghĩa mà phải dùng THẦN mới sáng suốt.
Tôi nay tuổi đã già (83 tuổi) nhưng cũng muốn góp phần nhỏ vào nền học vấn Kinh Dịch, nên tôi soạn lục ra đây ba mươi hai quẻ để cống hiến cho bạn đạo muốn nghiên cứu lĩnh vực Dịch Học.
Sách “Tìm Hiểu Khí Tượng của Quẻ Dịch”, tôi chỉ dựa vào tư tưởng của các Dịch gia, rồi tích hợp soạn lục lại cho dễ hiểu, để giúp cho số người ít hiểu chữ NHO.
Sách dựa vào Bát Quái xoay đủ tám vòng thành ra 64 quẻ. Trong 64 quái có 8 Quái Bất Dịch. Tứ Chính: 1. Bát Thuần Càn; 2. Bát Thuần Khôn; 3. Bát Thuần Ly; 4. Bát Thuần Khảm.
Tứ ngung có: 1. Sơn Lôi Di; 2. Trạch Phong Đại Quá; 3. Phong Trạch Trung Phu; 4. Lôi Sơn Tiểu Quá, cộng là tám quái.
Tám quái này bất dịch, có tâm đối xứng, thường trụ, làm rường cột cho 56 quái đang giao biến vô cùng tận.
56 quái thực chất là 28 quái, cộng với 8 quái bất dịch thành 36 quái tượng cho 36 từng Trời (tam thập lục thiên), 28 quái tượng cho 28 tinh tú (nhị thập bát tú). Tám quái bất dịch gọi là Hám Quái.
: Hám có nghĩa là quả quyết, nhất quyết có một không hai. Nó tiêu biểu cho Bát Hồn vận chuyển trong lò Bát Quái.
Bát Hồn là: Kim Thạch Hồn, Thảo Mộc Hồn, Thú Cầm Hồn, Nhân Hồn, Thần Hồn, Thánh Hồn, Tiên Hồn, Phật Hồn. Các hồn đang luân hồi chuyển kiếp liên tục trong bầu Trời đất.
Trí hiểu biết của tôi có giới hạn, nhưng vì tinh thần lập ngôn, tôi viết ra đây, chắc có nhiều thiếu sót, rất mong các bậc Dịch Học gia bổ túc để góp vào nền giáo lý Cao-Đài thêm phong phú, thành kính cảm ơn.
BÁT QUÁI TỨ CHÍNH: BÁT THUẦN CÀN, BÁT THUẦN KHÔN, BÁT THUẦN LY, BÁT THUẦN KHẢM.
BÁT QUÁI TỨ NGUNG: SƠN LÔI DI, TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ, PHONG TRẠCH TRUNG PHU, LÔI SƠN TIỂU QUÁ.
 

Khởi viết ngày Bạch lộ: ngày 27 tháng 7 năm Đinh Hợi (2007), ngày 8 tháng 9 năm 2007.



 Tên quẻ là BÁT THUẦN CÀN
 Càn thượng là NGOẠI CÀN
Càn hạ là NỘI CÀN.
Quẻ Càn có sáu nét tượng là sáu hào dương hoàn toàn cương kiện, tượng thể “Trời” nên đặt tên quẻ bằng Càn.
Trên đây là Đức PHỤC HY phác họa ông Trời tượng trưng bằng sáu nét dương.
Trong bài kinh “Ngọc Hoàng Bửu Cáo” có câu:
CÀN KIỆN CAO MINH, vạn loại thiện ác tất kiến”. Ngôi Càn là Trời, kiện là mạnh mẽ, Càn là thể, kiện là dụng. Câu kinh có nghĩa là: Trời là đấng mạnh mẽ, cao sáng vòi vọi, việc lành việc dữ của muôn loài vạn vật đều biết và thấy rõ.
Thời thừa lục long du hành bất tức” nghĩa là: Trời thường xuyên cỡi sáu rồng (tượng sáu nét dương) đi khắp cùng Vũ-trụ, không giây phút ngưng nghỉ.
Rồng là con vật vô hình, mượn để nói lên cái Linh-Khí, cái đức, cái năng lực vô biên của Trời, sáu con rồng là tượng sáu khí tuần hoàn luân chuyển mười hai tháng trong một năm.
1.    Khí Khuyết Âm phong mộc làm chủ tháng giêng và tháng hai.
2.    Khí Thiếu Âm quân hỏa làm chủ tháng ba, tháng tư.
3.    Khí Thiếu Dương tướng hỏa làm chủ tháng năm, tháng sáu.
4.    Khí Thái Âm thấp thổ làm chủ tháng bảy, tháng tám.
5.    Khí Dương Minh táo kim làm chủ tháng chín, tháng mười.
6.    Khí Thái Dương hàn thủy làm chủ tháng mười một và tháng  chạp.
Sáu khí phong (gió), hỏa (lửa), thử (nắng nóng), thấp (ẩm ướt), táo (khô ráo), hàn (lạnh), lưu hành, tuần hoàn, luân chuyển tạo thành định luật: Sanh, thành, suy, diệt mà vạn vật đều phải tuân theo.
Trời ở đây là lý tính Thượng-Đế, là năng lực sáng tạo vô song, là tình thương yêu là lẽ hằng sống.
Trời ở Tây Phương gọi là Dieu.
Trời thấy tất cả (Dieu voit tout).
Trời nghe tất cả (Dieu entand tout).
Trời biết tất cả (Dieu connait tout).
Trời là sức mạnh vĩ đại (Dieu tout puissant).
Dưới đây là lời đoán quẻ của Văn Vương.
Soán từ:
CÀN: Nguyên, Hanh, Lợi Trinh.
 Soán nghĩa là đoán, Đức Văn Vương thấy quái hào của Đức PHỤC HY mà nghĩ rằng nếu để vậy sợ học giả chẳng hiểu tinh lý diệu dụng của quẻ, nên làm thành lời phán đoán, minh bạch ý tượng của quẻ có thể suy hiểu được.
Bây giờ theo từng chữ mà giải thích quẻ CÀN.
Nguyên: nghĩa là đầu tiên, là khởi đầu, là lớn, là nguyên động lực sáng tạo.
Hanh: Hanh thông, thuận tiện, tiến bộ không ngừng.
Lợi: Lợi thế, phát triển đủ mọi mặt.
Trinh: Kiên trì bền bĩ từ thủy đến chung.
Nay đặt ví dụ cho dễ hiểu: Một hạt giống hạt mộng rất tốt được đem gieo xuống đất, ít lâu mộng nứt ra, mộng ấy là nguyên, trung gian cây mọc lớn lên kết thành hoa trái, ấy là Hanh, Lợi.
Trái chín, hạt ở trong trái in như hạt giống nó lúc mới gieo, ấy là Trinh.
Hạt nó làm giống đem gieo trở lại xuống đất, mầm nó mọc lên y nhiên ấy là nguyên.
Bốn đức ấy xoay vòng chung thủy, đã Nguyên tức nhiên Hanh Lợi, đã Hanh Lợi tức nhiên đến Trinh.
Làm việc lớn, việc nhỏ, việc nhà, việc nước, việc đạo, việc đời đều phải giữ tròn bốn đức ấy, mới gọi là “Thuận Thiên giả tồn”.
Trái lại, nếu nguyên nhân đầu bất trung, bất chính, chủ nghĩa đầu đã chẳng tốt thì tất nhiên bất Hanh, bất Lợi, mà cuối cùng cũng bất Trinh. Đây chẳng qua theo chữ nghĩa mà giải thích, còn thâm ý của Thánh nhân, tùy học giả gia tâm suy nghĩ.
Dịch cho ta thấy sáu hào của quẻ Càn, tượng mỗi hào là một thời đại, một giai đoạn, một cơ hội, một lĩnh vực, Thánh nhân coi theo thời Trời mà hành đạo, thời nên ẩn, thời nên hiện, thời nên tịnh, thời nên động, thời nên tiến, thời nên lui, in như cỡi sáu rồng du hành thống ngự cả trời đất.
Dịch vốn vô hình, vô thể tất phải mượn tượng số để minh lý. Sáu hào chia cho ba tài, tài địa hào 1 hào 2 ở dưới, tài nhân hào 3 hào 4 ở giữa, tài thiên hào 5 hào 6 ở trên.
Dịch là môn tâm linh học, Đức Khổng Tử đã nói:
 “Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ”. 
Nghĩa là: Dịch là Đạo vô tư, vô vi, lặng lẽ không có hành động, nhưng phần Linh Khí cảm ứng chi phối mọi sinh hoạt, mọi hành động, do đó mà được toại lòng thỏa thích với mọi sinh vật trên thế giới.
Ngài nói: Giá ngã sổ niên tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá dã.
 Nghĩa là : Giá cho ta sống được ít năm nữa để học cho trọn bộ Kinh Dịch, chắc có thể không phạm sai lầm lớn.
Dịch gốc vô hình, Đức PHỤC HY thấy được lẽ huyền vi mầu nhiệm của Trời, nên mới mượn tượng số hào quái để thuyết minh lý Đạo, nên Kinh Dịch có thể gọi là môn “TÂM LINH HỌC”.
Ta mở Kinh Dịch đầu tiên thấy quẻ CÀN là tượng Trời, vậy chúng ta học Dịch muốn được thông tuệ phải tin có Trời. Vũ-trụ này có một đấng quyền năng cai quản, ấy là Thượng-Đế. Dân Việt Nam gọi là Ông Trời.
Chúng ta không tin có Trời, chẳng những không lập thân hành Đạo được, mà học Dịch cũng không thấu lý huyền diệu.
Nhìn lại bốn chặn đường của quẻ CÀN: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Chúng ta nhận thấy tính chất phổ biến, hay Vũ-trụ phi thời gian của bốn đức ấy vẫn trường tồn vĩnh cửu, đó cũng gọi là vòng Dịch nội tâm, vòng bên trong của Kinh Dịch, vòng khí thể, nếu lấy số ví dụ là: 1.3.6.9.
Trái lại vòng dịch bên ngoài thuộc phần vật thể, vật chất hữu hình, tuy thiên hình vạn tượng, nhưng đều biến hóa theo một định luật: Sanh, Vượng, Mộ, Tuyệt, nếu lấy số ví dụ là: 1.2.4.8.
Vòng trong là khí thuộc Trời, vòng ngoài là hình thuộc đất. Quẻ CÀN có sáu hào, hào 1 ở dưới cùng nên nó nặng phần duy địa, hay duy vật. Hào 6 ở trên cùng nó nặng phần duy Thiên hay duy Tâm.
1.    Hào 1, lời Kinh nói: Tiềm Long vật dụng.
 Một hào dương cương kiện (cứng mạnh) tượng con rồng (khí), nhưng địa vị và hoàn cảnh còn ở dưới hết, nên Thánh nhân dạy “Tiềm” tức là ẩn dật, dấu kín, không lộ diện, không bay nhảy được, Kinh dạy: “Vật dụng” chớ nên dùng.
Về mặt triết học thì Long là ý khí con người, là tư tưởng là tâm thức, hoàn cảnh hào một (1) giống như con người đang sống bám sát vật chất, bao nhiêu suy nghĩ tư tưởng đều cuộn theo chiều trục vật thì không nên dùng (Tiềm long vật dụng).
Bao lâu mà con người chưa đạt được tâm trạng nhân bản, chưa biết tôn trọng nhân quyền tự do để phụng sự xã hội, nhân sinh, mà đã tự hào dùng những hiểu biết của giác quan, của duy ý chí để hướng dẫn giáo hóa con người, thì đó là phiến diện, là sai lầm, là chạy theo chiều duy vật.
Hào 6 (sáu) cũng thế. Kinh văn dạy: “Kháng Long Hữu Hối”.
 Địa vị hào 6 (sáu) ở trên cùng quẻ CÀN, tức địa vị cao tột bực mà cũng là Đạo Duy Thiên. Việc trong thiên hạ hễ cùng thì tắc biến, đầy thì nghiêng đổ, Kinh dạy: “Kháng Long tri tiến nhi bất tri thối”.
 Trong thiên hạ có hạng người chỉ biết lúc tiến được cứ tiến, không biết lúc lui phải lui, kháng long hữu hối nghĩa là Đạo CÀN đã đến lúc cùng cực tột đỉnh rồi, sự vật đã đến lúc đầy tràn thì không thể tồn tại được nữa. Cực Dương sẽ biến ra cực Âm, quẻ CÀN sẽ biến ra quẻ KHÔN, đó là chân lý phổ biến của Dịch.
Hào 6 là tượng chỉ cho Trời, Trời đây là vô hình trừu tượng, Trời đối kháng với người là duy tâm hay duy linh, cố chấp độc tôn, chống đối với duy vật.
Học Dịch mà dùng hai hào này là lối học xa người.
Còn hào 2 thuộc Địa và hào 6 thuộc Thiên, nhờ nó nằm gần hai hào NHÂN 3 và 4, nên ta dùng bốn hào đó là: Hai, Ba, Bốn, Năm (2+3+4+5) mới gọi là Nhân Dịch hay Kỷ Dịch. Vì nó còn có chiều hướng đi vào nội tâm của con người. Còn hào 1 và hào 6 là Vật Dịch, dùng đến sẽ hối hận (Kháng Long hữu hối).
2. Hào hai (2), tượng mẫu người đã thức tỉnh, đã giác ngộ Đạo, làm người, nên lời kinh nói: LỢI KIẾN ĐẠI NHÂN.
Lợi đây là lợi tha, là mỹ lợi, là cái lợi đã biết được THỔ KHÍ (Cấn Thổ), đã biết nơi AN THỔ Đôn Hồ Nhân, Đại Nhân là chỉ cho bậc quân tử, Chơn nhơn, Thánh nhơn.
Hào 2 đã vượt qua giai đoạn trục vật để tiến đến nhân bản tâm linh, nên lời kinh thêm rằng: HIỆN LONG TẠI ĐIỀN THỜI XÃ DÃ.
Cái thời buông xả cái nhìn của lý trí phiến diện duy vật hay duy tâm mà HỒI QUAN PHẢN CHIẾU tức là nội soi lại tâm thức mình để mở ra một chân trời mới của TÂM LINH (tiềm thức, vô thức). Đến đây mới thấy được Đại nhân hay Chân nhân, con người thực của mình (Linh-hồn). Lợi kiến Đại-nhân ở trong thân ta là như thế.
3. Hào 3: Hào 3 này thuộc về tài nhân, dương hào ở vào dương vị, trùng cương bất trung, nguyên văn lời kinh: QUÂN TỬ CHUNG NHẬT KIỀN KIỀN, TỊCH, DỊCH NHƯỢC, LỆ, VÔ CỰU.
 Hào này Thánh-nhân không dùng chữ Long mà dùng chữ Quân-tử, vì đây là Tài Nhân. Quân-tử là người có tài đức hơn mọi người, có nhân cách hoàn toàn, quân tử ái nhân dĩ Đức nghĩa là người quân tử lấy đạo đức mà thương người. Quân tử bất niệm cựu ác: người quân tử không nhớ đến mối thù xưa.
Người quân tử ở vào địa vị hào cửu tam (hào 3) rất chông chênh, bán thượng lạc hạ rất khó xử, nên lời kinh khuyên: phải hết sức tu tỉnh, kiên trì suốt ngày, từ sáng đến tối phải kiền kiền, nghĩa là phải dũng cảm hăng hái tự cường. CHUNG NHẬT KIỀN KIỀN.
 Đến khi trời chiều tối thì nơm nớp lo sợ cho thân mình dễ bị sa ngã vào đường tội lỗi, phải nghiêm khắc tự nhủ bản thân, phải cẩn thận cố gắng giữ mình thì không có lỗi. Đó là: TỊCH DỊCH NHƯỢC, LỆ, VÔ CỰU.
 Tịch: Chiều tối.
Dịch: (có chữ tâm đứng) kính trọng lo sợ.
Lệ: Nghiêm khắc, khuyên nhủ cố gắng lên.
Kỷ Dịch: là nói mình tự dịch lấy mình. Dịch là biến đổi chuyển hóa, biến đổi những gì? Biến Tinh hóa Khí, biến Khí hóa Thần, biến Thần hóa Hư, biến Hư hoàn Vô.
Khi mình thấy được Chơn nhơn hay Đại nhơn là con người thiệt của mình, con người mà trong “Thánh Ngôn Hiệp Tuyển”, Thầy đã dạy: “Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân, một phàm gọi là Corporel (cọt-bô-rel)”, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi xác phàm mà ra, nên gọi là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể là không thấy đặng, cái xác vô hình thiêng liêng huyền diệu ấy do nơi TINH-KHÍ-THẦN mà luyện thành.”
Kỷ Dịch là luyện cho Tinh-Khí-Thần thành Nhị Xác Thân, đó là Đại-nhân, là Thần Hồn của chúng ta, là ngôi Hoàng Cực ở trong mỗi con người chúng ta. Cái đó Thầy gọi là: “Thầy là các con, các con là Thầy”.
4. Hào 4: Hào cửu tứ, hào này đã lìa khỏi hạ quái, tiến lên gần hào 5 là cửu ngũ, thì thế nào cũng tiến mà thôi. Nhưng phải tiểu tâm cẩn thận, phải biết xem thời mà tiến.
Theo thể quẻ Hào dương ở vào vị Âm có hiềm nghi vì bất chính, ở vào địa vị bán thượng lạc hạ, tiến thoái lưỡng nan nhưng tứ có khác hơn tam là đã tiến lên phần thượng quái nên có phần tự do hơn.
Cơ tấn hóa đã bước qua giai đoạn bốn, giai đoạn có tiến mà không thể thoái, người ở vào thời này được tự do chọn lựa hoặc xuất, hoặc nhập tùy ý. Người xử trí hào này có hai khả năng:
1- Nhảy lên cao đóng một vai trò lãnh đạo xã hội.
2- Ẩn dật vào nơi sâu thẳm để tu tâm luyện tánh, vì chưa gặp thời cơ thuận lợi. Đó là ý nghĩa HOẶC DƯỢC TẠI UYÊN.
 Cửu tứ: . Hoặc dược tại uyên vô cựu. Dược là nhảy vọt lên như con rồng có đủ vi cánh nanh vuốt muốn bay lên Trời, Hào này ta phải chú ý chữ HOẶC. Hoặc có nghĩa là nghi ngờ, mê lầm, chữ Hoặc có hai lối giải thích, một là Kiến Hoặc () nghĩa là kiến thức mê lầm, ví như cuộc đời vô thường mà tưởng nó hữu thường.
Hai là Tư Hoặc:, nghĩa là mắt thấy sắc, say mê đắm sắc tai nghe âm thanh say mê âm thanh, không biết sắc với âm thanh đều là vọng cả. Cho nên người quân tử ở vào địa vị hào này đã được tự do bay nhảy, có tính cách linh hoạt uyển chuyển, có lên mà cũng có xuống, muốn buông lơi lý trí, tìm phương nhảy vào hố thẳm Vũ-trụ tâm linh nơi UYÊN NGUYÊN, HUYỀN MẶC (Dược tại uyên). Đây là tâm trạng muốn lìa bỏ xã hội xuất thế gian.
Kinh có nói:       Thượng hạ vô thường phi vi tà dã.
                            Tiến thoái vô hằng phi vi ly quần dã.
 Nghĩa là lên xuống không có luật thường, miễn là không làm điều tà vạy. Tiến thoái không có luật nhất định, miễn không xa lìa xã hội quần chúng, cho nên kinh đặt chữ “HOẶC” tỏ ý nghi ngờ, vì đây là tâm trạng muốn tiến nhanh vì dục vọng, nên có phần mê lầm, nguy hiểm rất dễ xa quần chúng, xuất thế gian, nên lời kinh dạy:
Thượng bất tại thiên
Hạ bất tại điền
Trung bất tại nhân
Cố hoặc chi
Hoặc chi giã, nghi chi dã
Trên chưa đạt Đạo Trời, Trời khởi từ hào 5. Đây mới là hào 4. Dưới đã lìa Đạo Đất, đất hết ở hào 2.
Giữa không có Đạo người, vì tuy hào 4 thuộc NHÂN mà Nhân lại trùng dương bất Trung, nên lòng người chưa được nhất tâm, cho nên kinh dạy còn phải làm cách mạng bản thân. Nguyên văn lời kinh:
Hoặc, Dược, Tại Uyên, CÀN ĐẠO NÃI CÁCH.
 Cách mạng ở đây không phải âm mưu cướp chính quyền, mà là cách mạng bản thân, đoạn tuyệt lý trí, luôn cả tình cảm và hành động, để tâm thanh tịnh, lẳng lặng trong veo, đưa tâm hồn ngấm sâu vào cõi Vũ-trụ Hư-linh, hầu đạt cơ tận thức. Hào 4 này khuyên con người  phải tu dưỡng thân tâm, dọn lòng trong sạch để trở nên người Chân-nhân quân tử.
5. Hào 5: Hào cửu ngũ. Nguyên văn lời kinh:
PHI LONG TẠI THIÊN, LỢI KIẾN ĐẠI NHÂN.
 Cửu là dương, Ngũ là vị Dương, Dương hào ở dương vị là đắc chính, Hào 5 ở chính giữa ngoại quái là đắc trung ở vào quẻ CÀN có tính cách cương kiện, lại đắc được Đạo TRUNG CHÍNH, ấy là toàn đức của Thánh-nhân, lại ở vào hào cửu ngũ là địa vị Chí Tôn ở trong quẻ, ấy là THIÊN ĐỨC, tượng như con rồng bay cao ở giữa trời nhìn thấy tất cả, nên nói Phi Long Tại Thiên.
Lợi kiến Đại-nhân hào 2 với Lợi kiến Đại-nhân hào 5 là ý nói lên cái công phu tích lũy từ thấp đến cao, hào 2 là tạo nhân mà hào 5 là kết quả.
Tạo nhân là mới bắt đầu xây dựng con người lý tưởng đến kết quả là đã có con người toàn thiện, toàn hảo, không còn trong ước mơ nữa, mà đã biến thành hiện thực, ấy là đạt được kết quả viên mãn.
Quẻ CÀN 6 hào nói lên cơ tấn hóa của đời người, từ chữ TIỀM, HIỆN đến DƯỢC, PHI, cũng chỉ là công phu tu dưỡng tích lũy từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, vẫn theo thời mà tiến lần, không dễ gì trọn đời cứ tiến mãi, cũng không phải bổng chốc mà phi ngay, chúng ta phải kiên trì gian khổ, rèn luyện hạnh đức, tích lũy công phu,  bắt đầu TIỀM dưỡng nghĩa là giấu kín, tiềm tàng nuôi dưỡng chân khí như hào 1. Rồi bước lên như “Hiện Long” hào 2, cái chân khí đã hiện ra rõ ràng, lại phải Kiền Dịch như hào 3, nghĩa là phải hăng hái tự cường tiến lên Hoặc, Dược như hào 4 là đã đủ sức nhảy vọt lên.
Trải qua thời gian lâu dài, công phu thành thục thì mới đạt được kết quả là: PHI LONG TẠI THIÊN, lần này con Rồng đã xuất hiện trên bầu trời thanh bạch, bay lượn thong thả, đó là tả cảnh Linh Hồn siêu thoát đạt Đạo.
Người đạt Đạo gọi là Chơn nhơn hay Đại nhơn. Đức tánh của Đại nhân như sau:
PHÙ ĐẠI NHÂN GIẢ  :
GIỮ THIÊN ĐỊA HỢP KỲ ĐỨC
GIỮ NHỰT NGUYỆT HỢP KỲ MINH
GIỮ TỨ THỜI HỢP KỲ TỰ
GIỮ QUỶ THẦN HỢP KỲ HUNG.
Thật đúng với ĐẠI NHÂN mà sứ mạng là HÒA và HỢP, là GIAO và HỘI.
Muốn thành Đại-nhân đúng nghĩa, thì không còn bị ràng buộc trong một cái duy nào nữa, không duy Địa, duy Thiên hay duy Nhân mà chỉ thích hợp với cái Lý duy nhất.
1. Hợp với Linh Đức của Trời Đất.
2. Hợp với sáng soi của Nhật Nguyệt.
3. Hợp với tiết điệu của Bốn Mùa.
4. Hợp với cát hung của Quỷ Thần.
Mấy câu này nói lên Đức “Chí Thành” của hào 5. Tất cả những gì đã khởi sự ở các hào 1,2,3,4 đều được kết tinh nơi hào 5, được mở rộng ra bao la Vũ-trụ, nhờ đó mà Đại-nhân đạt độ sáng tác tạo dựng, cải tạo xã hội tiến trên con đường MINH DỨC TÂN DÂN, có thể thay Trời mà hướng dẫn thiên hạ đi theo con đường “Văn Minh Đạo Đức Tinh Thần”.
Cho nên lời Kinh nói: Quân tử kiến cơ nhi tác, thủ xuất thứ vật, vạn quốc hàm ninh.
 Nghĩa là người quân tử biết được cơ Trời đủ tư cách lãnh đạo thiên hạ, làm cho vạn quốc được hàm ân. Tức là được hưởng an ninh hòa bình thật sự.
Sở dĩ Đại-nhân làm được như vậy là nhờ có một động lực phi thường là “Tình thương yêu vạn vật”, từ cơ sở đó đã tạo ra sức hấp dẫn mãnh liệt, đó là cơ cảm ứng trong Trời Đất.
Sở dĩ cửu nhị là hào hai, lợi kiến cửu ngũ là hào 5, thiên hạ lợi kiến Đại-nhân cũng chỉ vì cơ cảm ứng tự nhiên mà có, cảm ứng không ai bắt ai, mà tự đến với nhau, chỉ vì đồng tâm hợp đạo mà thôi, ví như: con hạc mẹ kêu, hạc con không thấy mẹ nó, nhưng nó họa lại ngay, đêm khuya có một con gà gáy thì bao nhiêu gà khác đều gáy theo ngay. Vì đồng một tiếng nên ứng với nhau như thế (đồng thanh tương ứng) lại ví như đem gương lấy lửa để dưới ánh mặt trời thì lửa bén ngay, vì mặt trời là lửa, nên gương lấy lửa dẫn được khí mặt trời. Đem đá nam châm đặt nơi có sắt, thì nó hít đồ sắt ngay, vì đá nam châm là mẹ đẻ ra sắt, nên nó hít được đồ kim loại “Đồng khí tương cầu là thế”.
Nơi thấp là hợp với tánh nước, nên nước thường chảy xuống chỗ thấp (thủy lưu thấp) nơi khô ráo thời hợp với chất lửa, nên lửa thường bén nơi khô ráo (hỏa tựu táo) hễ hợp tánh thì tìm nhau như thế.
Long là vật thuộc loài dương, mà cũng khí dương sinh ra, nên mây bay theo Long, Long hiện thì mây ùn tới “Vân tùng Long”.
Hổ là thuộc về loài âm, mà phong lại là âm khí phát động nên phong hay theo hổ “phong tùng hổ”. Một vị Thánh-nhân xuất thế, thì nhân loại ở đâu cũng hướng về “Thánh-nhân tác nhi vạn vật đổ”.
Thử xem bao nhiêu động vật, đầu đều hướng về phía trên không thấy động vật nào chân ở trên, vì nó là một loài gốc ở trời, đắc dương khí mà phát sinh ra, nên nó thân thượng “Bản hồ thiên giả, thân thượng”.
Lại xem bao nhiêu thực vật, đầu đều hướng xuống đất, chẳng thấy cây cỏ nào đầu ở trên cả, bởi vì nó là loại gốc ở đất, do âm khí phát sinh ra, nên nó thân hạ “Bản hồ địa giả, thân hạ”.
Loài người gốc nguyên khí âm dương tạo hóa sinh ra vẫn là loài hiền lành, nay được một người rất lành như Thánh-nhân, tất nhiên thiên hạ đều theo, cũng là “TÙNG KỲ LOẠI” vậy, “TẮC CÁC TÙNG KỲ LOẠI DÔ. Cho nên lời kinh dạy:
ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU, THỦY LƯU THẤP, HỎA TỰU TÁO, VÂN TÙNG LONG, PHONG TÙNG HỔ, THÁNH NHÂN TÁC NHI VẠN VẬT ĐỔ.
BẢN HỒ THIÊN GIẢ, THÂN THƯỢNG.
BẢN HỒ ĐỊA GIẢ, THÂN HẠ, TẮC CÁC TÙNG KỲ LOẠI DÃ.
 Dịch là một nền minh triết phổ biến, không duy thiên hay duy địa, mà có âm có dương, có thủy có hỏa, có lên có xuống, có thân thượng mà cũng có thân hạ, nên không có một khuynh hướng nào bị ức chế, tất đều được phát triển tùy tài đức, đó là sự sáng tác độc đáo của Thánh-nhân khiến mọi người đều được xem thấy đều được hưởng nhờ.
Hào 6- Thượng cửu: KHÁNG LONG HỮU HỐI.
Thượng cửu là hào dương trên cùng của quẻ Càn, tượng vẫn là Long, có đức cương kiện, cũng là một vị quân tử, nhưng địa vị hào này ở cuối cùng của quẻ CÀN, là cao đến tột bực, thế là thượng chi cực, sự chi chung. Hễ việc thiên hạ cùng thời biến, đầy thì nghiêng, bậc quân tử xử vào thời này phải răn đường dinh mãn, giữ tính khiêm nhường mới tránh khỏi họa “Thái cương tắc chiết” (cứng quá ắt gãy đổ). Nếu đầy quá mà không biết dừng lại, tiến hoài mà không biết thoái, ấy là kháng long. Kháng nghĩa là cao cực, cũng nghĩa là cương cực, cao cực thì không thể thoái được, cương cực thì không thể ôn hòa, đầy tất phải tràn, cương thì phải gãy, thế nào cũng có việc phải ăn năn “Sở dĩ hữu hối”.
Lời kinh có dạy: TRI TIÊN NHI BẤT TRI THOÁI, TRI TỒN NHI BẤT TRI VONG, TRI ĐẮC NHI BẤT TRI TÁNG:
Nghĩa là: Biết tiến mà không biết thoái. Biết còn mà không biết mất, biết đắc mà không biết thất. Đó là theo lối nhị nguyên độc khối một chiều.
Xét hào thượng cửu này CÀN ĐẠO đã đến hồi dinh mãn (tràn đầy) không thể nào duy trì được nữa.
7. DỤNG CỬU (THÀNH SỐ CHI CHUNG). Nguyên văn lời kinh:
   KIẾN QUẦN LONG VÔ THỦ, KIẾT.
 Quẻ CÀN và quẻ KHÔN trong Kinh Dịch có cái đặc trưng là thêm mỗi quẻ một cấp, quẻ CÀN thì dụng cửu, quẻ KHÔN thì dụng lục. Số Cửu là thành số chi chung của khí thuần Dương, số dương của Ngũ Hành là 7 và 9. Dụng Cửu là dụng số 9 dương thành. Số âm thành của Ngũ hành là 10, 8 và 6. Số âm tính ngược nên dùng số 6, dụng lục. CÀN cực dương phản ra cực ÂM là KHÔN, trong sự chuyển hóa quá độ này có chất đệm trung gian gọi là Dụng Cửu. Khôn chuyển hóa ra Càn cũng phải có trung gian gọi là Dụng Lục. Cửu và Lục là số Thần Minh diệu dụng của Âm Dương, mà Đạo Cao-Đài gọi là 96 ức nguyên nhân, hay 96 đạo hào quang ở luân xa số 6 tại huyệt Ấn Đường. Luân xa này mở, tức là người tu có huệ nhãn.
Số 9 là biểu thị ngày kỷ niệm THƯỢNG-ĐẾ (ngày 9 tháng giêng mỗi năm). Đối với pháp tu là cửu chuyển, cửu khiếu khai thông. Đối với nền chánh trị Đức Trị là Cửu Trù Hồng Phạm.
Kinh nói: Cửu cửu càn khôn dĩ tận thức.
 Số lục là biểu tượng sáu luân xa huyền bí trong thân con người, người tu khai mở được 6 luân xa là đắc lục thông.
Số 9 và số 6 cộng thành số 15. con số 15 là số Lạc-Thư. Kinh nói: “Thập ngũ Lạc-Thư vị chi huyền”. Huyền là mầu nhiệm, huyền diệu. Số 15 tượng Hà-Đồ và Lạc-Thư hợp nhứt. Nó là mẫu số chung của 10 phương Phật hay Ma phương sao Thổ. Số trung cung của Hà-Đồ.
KIẾN QUẦN LONG VÔ THỦ LÀ SAO?
Quần long là sáu hào dương, vô thủ là không có đầu, ý nói sáu hào quẻ CÀN đã biến mất thành số không (0). CÀN không còn là CÀN nữa, mà qua trạng thái Hư Vô chi Khí.
Rồng không còn đầu đuôi hình thể nữa, Đạo Dịch gọi là: Khí Hư Vô hay Vô-Cực nhi Thái-Cực, trong cái Hư-Vô có cái Diệu Hữu là Thần Thượng-Đế. Đức Phật Thích-ca nói: Thị chư pháp bình đẳng vô hữu cao hạ nghĩa là các pháp đều bình đẳng không có cao thấp, thế nhân gọi là: ĐẠI ĐỒNG vô biên giới, còn vật chất thì không bao giờ bình đẳng. Mạnh Tử nói: Vật bất tề, vật chi tình dã.
Dụng Cửu của quẻ CÀN thêm vào để nói lên bảy đợt tiến hóa của con người, vì đó là luật Trời “Thiên Tắc” cho nên ta thấy Đạo Chúa có bảy ngày, Đạo Phật có bảy bước, Đạo Dịch có bảy cấp, Đạo Cao-Đài có bảy ức niên, Số bảy cũng là số Đại diễn của Dịch 7x7= 49+1=50 (1 là Thái-Cực).
Sáu hào quẻ CÀN lời kinh nói: Lục hào phát huy BÀNG thông tình dã.
Cả sáu hào đều phát huy, gần nhau và thông hội gọi là “Thiên Tắc”. Vì sao trên đã nói không dùng hào 1 và hào 6, mà đây gồm cả sáu hào? Vì nhân dịch không thể dùng hào 1 là Địa, hào 6 là Thiên, vì Thiên Địa quá cao sâu, trí người có hạn, nên việc Địa Dịch và Thiên Dịch không thể tham gia được. Nhưng hai hào này nó bao hàm vì lân cận, hào 1 gần với hào 2 gần đất, hào 5 liền với hào 6 cùng Trời, sở dĩ bao hàm mà không nói ra viết ra được, chính vì chỗ lặng lẽ không nói ra nên hiệu năng toàn triệt. Vô thủ ở đây là nói vô thể, là khí “Hư vô”, VÔ THỦ, VÔ VỸ, VÔ THÂN, VÔ TÚC, nên không còn chỗ để chân hay dựa đầu, không có gì nên không phải ở chỗ nào, đó mới gọi là “THẦN”, vì THẦN vô phương, cũng như Dịch vô thể. Chỉ vì vô thể nên diệu dụng như THẦN, bao hàm hết các đợt tiến hóa của con người và sẽ tùy thời tùy trình độ, mà dùng hào này hào kia linh động, uyển chuyển đặng đi lên Trời; lời kinh dạy: LỤC VỊ THỜI THÀNH, THỜI THỪA LỤC LONG DĨ NGỰ THIÊN, KIỀN ĐẠO BIẾN HÓA, CÁC CHÍNH TÍNH MỆNH, BẢO HỢP THÁI HÒA.
 Giải nghĩa: Sáu nấc thang tiến hóa tùy thời mà thành tựu, tùy thời mà cỡi sáu rồng đi lên trời, CÀN đạo biến hóa, tùy mọi loài sẽ tiến theo đúng cái tính mệnh của mình, gây nên cuộc thái hòa trong Vũ-trụ.
Tóm lược, đây là trình độ tiến hóa được diễn tả trong quẻ CÀN, nhằm giúp cho vạn vật giữ được tính mệnh để duy trì sự hòa hợp đến đỉnh cao cùng tột.
Đây là cứu cánh của con người mà từ xưa Thánh-nhân đã nhằm khi làm ra Kinh Dịch với chủ đích giúp con người thuận theo cái lý của Trời Đất, của TÁNH MỆNH để tiến hóa và tạo dựng sự sống trong hòa bình hạnh phúc, trong trật tự âm dương ngũ hành.
Học quẻ CÀN chỉ tóm một câu:
Tượng viết: THIÊN HÀNH KIỆN, QUÂN TỬ DĨ TỰ CƯỜNG BẤT TỨC:
 Người học Dịch nên bắt chước Trời mà tự cường bất tức. Tượng quẻ CÀN có sáu hào dương, ý nói Trời đi rất mạnh, chữ Hành là đi, làm việc hoạt động không ngừng.
Tự cường: Tự đem nội lực của mình mà hành động, không cần tha lực giúp đỡ.
BẤT TỨC: Chẳng giờ phút ngưng nghỉ như hơi thở của con người, không bao giờ gián đoạn.
Suốt đời phải tự lực tự cường, lo TU THÂN, học tập và làm việc không bao giờ ngưng nghỉ, có được như thế mới đạt cơ tiến hóa.
Đức Khổng Tử đã tán tụng Đạo CÀN:
ĐẠI TAI CÀN HỒ, CƯƠNG KIỆN, TRUNG CHÍNH, THUẦN TÚY, TINH DÃ.

  Bảy chữ: CƯƠNG KIỆN, TRUNG CHÍNH, THUẦN TÚY, TINH, mỗi chữ hàm xúc một ý nghĩa.
Cương là sức mạnh tức là chữ Dũng, nhưng mạnh mà không bền dai là không phải kiện.
Kiện là mạnh mà lại bền dai tức là nghị lực . Người có tánh dũng, cương quyết quả cảm gọi bằng cương, có tánh nhẫn nại gọi bằng kiện. Nhưng cương kiện có lúc thái quá, có lúc bất cập thời là bất trung, hoặc có lúc chếch mác nghiêng lệch một bên gọi là bất chính.
Vậy nên có đức tốt cương kiện lại phải tu dưỡng cho được vô quá, vô bất cập, bất thiên, bất ỷ mới là cương kiện, trung chính. Nhưng đức cương kiện đó phải trong như ngoài, ngoài như trong, chung như thủy, thủy như chung mới là THUẦN TÚY. Đã thuần túy như vậy phải cho tinh ròng, tốt, sạch, sáng gọi là TINH.
Ví dụ: Nếu cương kiện như Thầy Tử Lộ mắc cái tệ: Bạo hổ bằng hà
 () nghĩa là tay không mà bắt hổ, không thuyền mà lội qua sông, ý nói có sức mạnh mà không có mưu. Trung chính mà như ông Bá Di, ông Liễu Hạ Huệ thì mắc cái tệ ải với bất cung. Tệ là hư xấu , ải là chật hẹp, bất cung là ngạo đời.
Bá Di vẫn là bậc thánh chi thanh nhưng vì tật ác thái thậm, độ lượng chật hẹp, không dung nạp được người.
Ông Liễu Hạ Huệ vẫn là bậc Thánh chi hòa, nhưng vì quá lờn lã với người đời, thành ra xử thế bằng cách “Mục trung vô nhân” nghĩa là trong con mắt không thấy người nào (khinh người).
Dũng cảm như Thầy Tử Lộ là cương kiện mà bất tinh. Thanh, Hòa như ông Di, ông Huệ là trung chính mà bất tinh. Vậy nên: CƯƠNG KIỆN, THUẦN TÚY, TRUNG CHÍNH, mà kết thúc bằng đức TINHlà trong sạch, tinh túy, tốt đẹp trọn vẹn. Đức tính của CÀN đến đây mới được CHÂN, THIỆN, MỸ.
Tóm tắt ý tượng của quẻ:
Bát Thuần Càn, kiện dã: Chính yếu, cứng mạnh, khô, lớn, khỏe mạnh, đức không ngừng nghỉ. NGUYÊN HANH, LỢI, TRINH chi tượng. Tượng vạn vật có khởi đầu lớn lên toại chí thỏa lòng, hóa thành.                     

QUẺ BÁT THUẦN KHÔN
            
Vạn vật trong Vũ-trụ này, ta thấy chẳng có gì là không đối đãi nhau. Ví nam thì phải có nữ, thiện thì phải có ác, chính thì phải có tà, CÀN thì phải có KHÔN.
Trong Bát Quái Tiên-Thiên, ta thấy tám quái đều đối đãi, ví như Khảm thì có Ly, Càn thì có Khôn, Chấn thì có Tốn, Cấn thì có Đoài, cứ lấy lý ấy mà suy thì Dịch gốc do hai khí ÂM DƯƠNG là hai năng lực của Trời Đất đối đãi nhau, biểu thị sự tương tác, tương phản, tương thôi, tương thành.
- Tương tác là cùng nhau hợp tác hành động.
- Tương phản là tuy hợp tác nhau nhưng nội tại vẫn có sự mâu thuẫn phản khắc.
- Tương thôi là cùng nhau thúc đẩy tiến bộ.
- Tương thành là nhờ vậy mà mọi việc đều được thành tựu.
Cái lý tương phản mâu thuẫn mà không hủy diệt nhau, lại thành công trong cơ sanh hóa là nhờ có nguyên dộng lực hóa giải là Lý Trung Hòa tiêu biểu là NGÔI THÁI CỰC ở Trời, ở người là NGÔI HOÀNG CỰC.
Ví dụ: Ở đồ Thái-Cực, ta thấy hai khí âm dương tương phản, nhưng nhờ ngôi Thái-Cực trung gian hóa giải, nên hai thế lực cùng song song hoạt động, không bên nào tiêu diệt bên nào.
Ở bản đồ Lạc-Thơ, ta thấy bốn phương bốn hướng đều đối lập với nhau, nhưng nhờ ngôi Hoàng Cực (số 5) ở Trung Ương là trọng tâm hóa giải các phương hướng (xem Bửu Pháp Quy Tức).
Một ví dụ nữa cho dễ hiểu là một khí Dương sanh THỦY, sáu là khí âm thành Thủy (1+6 = Thủy), giữa hai khí này ta thấy có một ẩn số là số 5, ấy là Ngôi Hoàng Cực.
Trong năm hành Âm Dương đối kháng sanh thành được là nhờ ngôi Hoàng Cực, tính khí của Ngôi Hoàng Cực là TRUNG HÒA.
Dịch nói:   TRUNG giả thiên hạ chi ĐẠI BẢN DÃ.
HÒA giả thiên hạ chi ĐẠT ĐẠO DÃ.
  Trung là nguồn gốc lớn của Thiên hạ,
  Hòa là mục đích tiến hành để đạt đạo”.
Việc đối đãi âm dương là một qui luật tự nhiên của Trời Đất, bởi vì vạn vật không có một mà là có đôi, nên hễ có CÀN là có KHÔN theo liền, học quẻ CÀN tiếp đến học quẻ KHÔN là vậy.
Học Dịch cốt để tìm sự đối đãi cân phân, ta thử vạch một đường dọc nối liền Nam Bắc, một đường ngang nối liền Đông-Tây, hai đường tung hoành đó tạo thành hình chữ Thập (+), một thể đối đãi giữa Càn Khôn, Ly Khảm. Đây là sự đối đãi của âm dương. Đem 64 quẻ ra khảo sát, nó cũng nằm trong sự biến đổi phản phúc như vậy.
Bắt đầu tìm hiểu quẻ Khôn.
Khôn thượng là ngoại Khôn.
Khôn hạ là nội Khôn.
Quẻ này sáu nét đều là nét âm, thuộc về thể đất tượng quẻ là Đức Nhu Thuận, nên đặt quẻ bằng Khôn. Khôn có nghĩa là Thuận.
Nguyên văn lời kinh:
KHÔN: NGUYÊN, HANH, LỢI, TẪN MÃ CHI TRINH, QUÂN TỬ HỮU DU VÃNG, TIÊN MÊ, HẬU ĐẮC, CHỦ LỢI, TÂY NAM ĐẮC BẰNG, ĐÔNG BẮC TÁNG BẰNG, AN TRINH, CÁT.
  Toàn bộ Kinh Dịch có hai cái lý nhất âm, nhất dương, nhất âm là quẻ Khôn, nhất dương là quẻ Càn. Nhờ CÀN KHÔN mới tạo thành vạn vật. Kinh nói: Cô dương bất sanh, độc âm bất thành. Nghĩa là một mình dương không thể sanh, một mình âm không thể thành được.
Càn Khôn có đủ bốn Đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, nhưng vì bản chất của Khôn là Nhu thuận, nên chỉ thừa thuận với Càn. Càn kiện hành đến bao nhiêu, thì Khôn cũng phải kiện hành đến bấy nhiêu. CÀN dương bao giờ cũng tác động mạnh mẽ khắp Vũ-trụ để gây mầm sanh, trong khi Khôn Âm lặng lẽ hóa thành tất cả những gì Dương đã biến sanh. Cơ CÀN KHÔN biến hóa vô cùng tận, nhờ đó mà vạn vật trong Vũ-trụ tồn tại mãi, cho nên kinh nói:
SINH SINH CHI VỊ DỊCH
 Đây là nhờ Đức Nguyên Hanh của CÀN KHÔN, Lợi Tẩn Mã chi TRINH, Tẫn () là con cái, con vật cái đều là tẩn, tẩn mã là con ngựa cái. Đây là nói con ngựa Rồng là Long Mã Hà Đồ, biểu tượng triết lý âm dương hiệp nhất. Con ngựa đã được chính khí tinh hoa của Trời Đất luyện thành, con vật đầu rồng, mình ngựa, chân ngựa, thân nó có vảy rồng, con ngựa đi đường dài là chiều ngang, con rồng biến hóa trên không trung là chiều dọc, ngang dọc kết thành chữ thập (+) nối liền Đông-Tây, Nam Bắc, với Dịch là CÀN KHÔN, LY, KHẢM. Ấy là biểu tượng con Long Mã, Lợi Tẩn Mã là tượng khí thuần âm của Trời Đất.
Trái Đất luôn luôn quay theo Mặt Trời, cũng như con Ngựa đi đường xa không nghỉ, thời gian đi hoài, không phút giây ngừng nghỉ, cũng như quẻ KHÔN đi song song với quẻ CÀN và luôn luôn bền giữ tính chất NHU THUẬN và LỢI TRINH.
Người Quân-tử học quẻ KHÔN, tự xét mình nếu ở vào địa vị quẻ KHÔN, muốn hành động việc gì HỮU DU VÃNG, mà thủ xướng trước người ta là lầm lỗi (tiên mê) mình chờ người ta thủ xướng trước mà làm theo, tất nhiên được thuận lợi, hậu đắc.
 Trong khi tiến hành công việc, chỉ cốt làm lợi cho thiên hạ, mình vì mọi người là lợi tha ấy là chủ lợi.
Còn nói về phương hướng KHÔN không thể bắt chước CÀN, vì CÀN là Trời, Trời bao trùm khắp Vũ-trụ, không có phương hướng, còn KHÔN là đất, đất thì có giới hạn, có phương hướng, nên KHÔN phải đi đúng phương hướng của mình. Phương hướng của KHÔN là TÂY NAM (Khôn lục đoạn, Tây Nam Mùi Thân), nên Kinh nói:
TÂY NAM ĐẮC BẰNG
Nghĩa là đi về hướng Tây Nam thì có bạn bè. Đông Bắc là Cấn, đi về hướng Đông Bắc là không có bạn bè.
ĐÔNG BẮC TÁNG BẰNG
Hai cầu này ý nói: Đi phải chọn phương, ngồi phải chọn hướng. Con người ở đời phải chọn lý tưởng cho hay, chủ nghĩa cho đúng, rồi kết hợp đồng tâm, đồng chí mà thực hiện, ấy là Phương Dĩ Loại Tụ.
 Vì bản chất KHÔN là ÂM, nhu thuận, không có chí khí mạnh, lập trường vững, dễ nghe lời quyến rũ lừa đảo, chạy theo phe này, đảng kia, dấn thân hy sinh không nhằm chỗ, gởi gắm tình cảm không đúng nơi, rốt cuộc thân bại danh liệt, nhân phẩm bị chôn vùi, uổng phí một kiếp sanh trong Trời Đất. Câu này Thánh-nhân dạy người có tánh NHU thể KHÔN, nếu xu hướng một tổ chức nào, cần phải kén chọn cho kỹ lưỡng, chắc chắn, nếu không thế thì mắc cái tội táng bằng (), kết quả không đắc bằng, xem câu cuối cùng:
 AN TRINH CÁT

AN TRINH là bền giữ đức Trinh Chính, bởi vì ĐỨC KHÔN vẫn NGUYÊN HANH như CÀN, nhưng mà tính chất của KHÔN thuần Âm cực Nhu, nên phải thừa thuận với CÀN. Tự thủy chí chung, kiên cố bất dịch ấy là AN TRINH, . CÁT là cuối cùng đều được tốt đẹp.
Ba chữ An, Trinh, Cát, là nghĩa vụ của KHÔN, mà vạn vật sinh thành mới hoàn mãn.
KHÔN nhờ có CÀN mà vạn vật được tạo sinh, CÀN nhờ có KHÔN mà vạn vật hóa thành, nên người ta gọi Càn Khôn là đấng tạo hóa vậy.

Chúng ta nghiên cứu cho kỹ lời kinh hai quẻ thì biết được thâm ý của Thánh-nhân rất chú trọng vào chữ TRINH (). Trinh nghĩa là chính mà bền vững. Nếu hoặc không chính, hay chính mà không bền, thì CÀN bất thành CÀN, KHÔN cũng bất thành KHÔN, CÀN KHÔN chỉ gây họa hại cho quốc gia xã hội mà thôi.
Kinh dạy người Quân-tử ở vào địa thế của KHÔN:
   ĐỊA THẾ KHÔN, QUÂN TỬ DĨ HẬU ĐỨC TẢI VẬT.
 Xem quẻ KHÔN thấy sau hào đều là âm, từ trên xuống dưới từng lớp chồng nhau, tượng như đất dày mà chứa đựng tất cả vạn vật, không có giống gì ở trên đất mà đất chối từ, ấy là địa thế của KHÔN.
- Người Quân-tử học đức của KHÔN, lấy đức rộng lớn sâu dày mà dung chở muôn loài vạn vật.
Đức của Trái Đất quá vĩ đại nên người đời đặt cái tên Mẹ Đất, Địa Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Phật Mẫu để tôn vinh.
Còn Đức CÀN là Trời thì gọi là Thiên Phụ, Cha Trời, Đại Từ Phụ, Chúa Trời, Chí Tôn …
Tóm lại: KHÔN là tượng trưng cho âm, đạo đất thuần âm. Quẻ Càn thuần dương tượng cho năng lực sáng tạo, dương cương dũng mãnh đi đầu, lãnh đạo, quẻ Khôn là thuần âm, tượng ôn nhu, hòa thuận, mềm mại, uyển chuyển, phục tùng, cho nên để âm đạo đóng vai trò lãnh đạo đi đầu, chắc chắn sẽ dẫn cả đoàn người đi vào đường lầm lạc.
ĐỨC CÀN tốt nhất là tính KIỆN, vì KIỆN  là mạnh mẽ, bền bỉ, người học Dịch phải bắt chước CÀN mà “TỰ CƯỜNG BẤT TỨC”.
ĐỨC KHÔN tốt nhất là tính HẬU, HẬU nghĩa là dày, vì hậu nên bền bỉ, dày dặn, rộng chứa, học Dịch phải bắt chước tánh KHÔN mà “HẬU ĐỨC TẢI VẬT.
CÀN KHÔN là hai quẻ đầu của Kinh Dịch là tượng Trời Đất. Cha Trời Mẹ Đất đã dày công sanh thành dưỡng dục muôn loài, vạn vật, nỡ nào được làm người lại quên cái công ơn vô cùng vĩ đại ấy.
Vì vậy, nên Đạo Cao-Đài tạo quả CÀN KHÔN để thờ Trời Đất, THẦY đã dạy: (Trích Thánh Ngôn Hiệp Tuyển đàn đêm 17/9/1926)
Bính, THẦY giao cho con lo MỘT TRÁI CÀN KHÔN, con hiểu nghĩa gì không? Cười… Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tất nghe con, lớn quá mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm tạo hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, cung Bắc Đẩu và tinh tú vẽ lên CÀN KHÔN ấy. THẦY kể tam thập lục thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải tinh tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho đủ, con mở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Đẩu con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu vẽ con Mắt Thầy, hiểu chăng? Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, bên trong để một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quý báu cho cả nhân loại CÀN KHÔN thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại Hội nghe à!
Đây là lời THẦY dạy chúng ta, Bầu Càn Khôn là tượng Trời Đất, là của chung của thế giới, vạn loại, trên Trời, dưới Đất, giữa loài người phải biết hội thông hòa hiệp với nhau mà sinh tồn; Chúng ta là con người, nhân thân là tiểu Vũ-trụ, phải học hỏi lý nhiệm mầu của CÀN KHÔN VŨ TRỤ, giữ gìn luật ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH cho được QUÂN BÌNH, để tránh tai nạn thiên khuynh, địa chấn, ô nhiễm môi trường sống, làm hủy diệt nhân loại vạn vật.
Con người ngày nay ỷ trí khôn khoa học, biến hóa bằng Trời, khai thác tài nguyên bừa bãi, phóng uế khí độc vào không gian, làm dơ bẩn bầu khí của Trời Đất, tai họa do con người gây ra quá lớn nên cuối cùng phải gánh chịu diệt vong, vô phương cứu thoát.
HÀO DỤNG LỤC:
Như trước đã nói quẻ CÀN KHÔN có cái đặc trưng là dụng Cửu và Dụng Lục. Dưới đây là giải thích hào Dụng Lục.
Hào Dụng Lục là sáu hào của quẻ Khôn, tất phải biến thành sáu hào của quẻ CÀN. Tượng là một con người nhu nhược biến thành một con người cương cường, giữa thời điểm biến hóa này phải có khí Trung-Hòa, người ta gọi là chất đệm, mới hóa thành tánh chất như thế, nên hào từ nói: LỢI VĨNH TRINH
  LỢI (), nghĩa là lợi ích chung, lợi tha, lợi tốt, như vô vãng bất lợi () tới đâu cũng tốt.
 VĨNH (), là lâu dài.
TRINH () là chính, giữ được tấm lòng chính đính, thủy chung không ai làm lay động được, gọi là TRINH.
Hào này VĨNH TRINH lại được chữ Lợi và vì Âm mà biến thành Dương, Nhu mà biến thành Cương, xấu mà biến thành tốt mới được như thế.
Sách Trung-Dung có câu: TUY NGU TẤT MINH, TUY NHU TẤT CƯỜNG.
 Nghĩa là một người ngu ám nhu nhược, nhưng nhờ công phu học vấn tu dưỡng, hết lòng lo trí tri lực hành, kết quả ngu ám biến ra thông minh, nhu nhược biến ra cương cường.
Học giả học đạo luyện khí công, biến được khí Hậu Thiên trong người thành Khí Tiên Thiên, đấy chính là Dụng Lục vậy.
Tượng viết: DỤNG LỤC VĨNH TRINH DĨ ĐẠI CHUNG DÃ.
Hào này Vĩnh Trinh là vì thuần Âm mà biến thành thuần Dương, thông lệ ở Dịch Lý, đại thuộc phần Dương, tiểu thuộc phần Âm, thế là nguyên chất hào âm vẫn là tiểu, trải qua một cuộc biến hóa, lần lần đến cuối cùng thuần Dương là Đại. Tiểu mà hóa nên Đại là một hạng người tạo thời cải thế rất hay.
Dụng Lục có hai mặt chánh và tà, sáu hào Âm tượng một bầy tiểu nhân đang gặp thời đắc thế, lo tranh danh đoạt lợi, cướp quyền đoạt của, hại người, gây tai họa khốn khổ cho đời, không biết gì là lương tâm công lý. Đây là Dụng Lục theo tà giáo, theo lòng tham muốn ích kỷ cá nhân.
Đức Khổng Tử sở dĩ không thích hào Dụng Lục, vì Ngài sinh gặp thời chiến quốc, các nước vì quyền lợi tranh nhau, gây nên thảm họa chiến tranh, đạo tiểu nhân thắng quân tử, KHÔN ÂM ỨC CHẾ CÀN DƯƠNG, Đạo Đất thắng Đạo Trời, Ác khống chế Thiện, con người sống phi nhân nghĩa, bất tín, bất trung, các nước tranh hùng, đem quân đánh phá giết hại lẫn nhau, làm cho thây phơi máu đổ.
Kinh nói: KHỔNG TỬ SỞ DĨ BẤT THÍCH DỤNG LỤC HÀO TỪ GIẢ, PHÙ DƯƠNG ỨC ÂM CHI Ý DÃ. CÁI NHƯỢC PHÙ ÂM, TẮC ÂM ĐẲNG Ư DƯƠNG, KHÔN ĐỊCH Ư CÀN, HUYẾT TẢI CHI HỌA, VÔ THỜI KHẢ TỨC, CỐ VĂN NGÔN BẤT TÁN DỤNG LỤC.

Nghĩa là Đức Khổng Tử sở dĩ không thích hào dụng lục, ý của Ngài muốn nâng đỡ Dương, đè nén ức chế Âm. Nếu như nâng đỡ Âm ngang bằng với Dương, thì Khôn gây chiến tranh với Càn, sẽ có tai họa máu đổ vì chiến tranh, không có cách nào ngăn chặn được, nên Ngài không phụ họa tán dương cho hào DỤNG LỤC.
Dưới đây, tôi muốn bàn HÀO DỤNG LỤC đối với TÂM HỌC.
Lục đây đối con người là lục căn; là sáu giác quan nguồn gốc cảm xúc, hiểu biết của con người.
1. NHÃN CĂN: Nhãn là mắt, mắt nhìn thấy màu sắc tốt đẹp sinh lòng ham muốn.
2. NHĨ CĂN: Nhĩ là tai, tai thích nghe những lời đường mật, nịnh hót, những tiếng thị phi, những điệu ca nhạc kích động, khiêu tình phi lễ.
3. TỶ CĂN: Tỷ là mũi, mũi ưa ngửi mùi thơm, hơi ngọt động lòng ước muốn.
4. THIỆT CĂN: Thiệt là lưỡi, lưỡi thích nếm vật lạ, món ngon, thích ăn đồ cao lương mỹ vị, nên phạm tội sát sanh.
5. THÂN CĂN: Thân là xác thân, thân thì thích vợ đẹp, con xinh, giàu sang quyền lực, ham muốn đủ thứ, làm cho hao tán tinh thần, tiêu mòn thể xác.
6. Ý CĂN: Ý là ý nghĩ, là tư tưởng, là thức giác. Ý thường suy nghĩ tính toán, tạo thành dục vọng ham muốn đủ điều. Nó nghĩ việc này sang việc khác, chuyện nọ chưa hết đến chuyện kia, cái ý như ngựa không cương, việc nó nghĩ, khách quan không thể thấy, không biết; dòng suy nghĩ xẹt vô, nhảy ra trong óc con người lẹ làng như tia chớp, không có chi ngăn cản đặng. Người tu cho nó là kẻ trộm tài tình, xách món này lấy món kia trước mắt mọi người mà chẳng ai thấy.
Vậy nên mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân cảm, ý nghĩ lung tung, lục căn xúm nhau làm thân tâm ta dao động, bất an, sanh lòng tham quấy, gây nên tội lỗi, đấy là Dụng Lục theo đám tiểu nhân.
Nhưng phản lại, nếu biết chuyển hóa làm cuộc cách mạng THÂN TÂM thì sáu giác quan ham muốn hèn hạ này, hóa thành sáu cái thông minh đạt Đạo, thần học gọi là Lục Thông.
Lục Thông gồm có:
1. Thiên Nhãn thông.                             2. Thiên Nhĩ thông.
3. Thần Cảnh thông.                              4. Lậu Tận thông.
5. Túc Mạng thông.                                6. Tha Tâm thông.
Giải nghĩa Lục Thông:
1. Thiên Nhãn thông: Đang lúc ngồi thiền định, tự nhiên mê bế, không biết gì, tâm lặng lẽ trống không, sau đó nhãn tâm khai mở tự nhiên bên trong bừng sáng, THẦN HUỆ DIỆU MINH, địa lý sơn hà thấy như nét chỉ trong bàn tay, nhìn thấy quá khứ, hiện tại và vị lai của kiếp người.
2. Thiên Nhĩ thông: Nghe tiếng thập phương như ở bên tai, nhớ việc kiếp trước như việc nhãn tiền.
3. Thần Cảnh Thông: Chẳng ra khỏi nhà mà thấy chuyện thiên hạ, ngồi trong phòng kín mà biết tất cả mọi sự vật.
4. Lậu Tận thông: Ngồi đại định nhãn tâm phát hiện, lưỡng quan đều thấy biết; bên trong thân thấy cả lục phủ, ngũ tạng, ngoài thấy hình tướng tóc tai, nội quan, ngoại quan đều biết, Thần Trí sáng suốt dũng mãnh, lời nói có điễn lực hấp dẫn người nghe không chán, thuyết diệu, đàm huyền vô cùng vô cực.
5. Túc Mạng thông: Nhập đại định trên thấy thiên đường, dưới thấy địa ngục, nhìn thấy vô số kiếp trước, túc mạng hiển bày.
6. Tha tâm thông: trí tuệ viên mãn, thần thông biến hóa, xuất nhập tự tại, nhìn thấy tâm mình với tâm chúng sanh là một, tiểu ngã với đại ngã là một, Thượng-Đế nội tại với Thượng-Đế ngoại tại là một, một là tất cả, tất cả là một, ngồi một chỗ mà tâm cảm ứng với Trời Đất, với muôn loài vạn vật.
Đây là kết quả của bậc tu hành biết áp dụng “Hào Dụng Lục” của quẻ Khôn vào bản thân, để khai mở sáu luân xa gọi là sáu bánh xe Pháp ở trong mỗi người, hay là sáu đại huyệt hiệp thông với sáu khí của Trời Đất.
Tóm lại: Hào Dụng Lục, nguyên văn lời kinh chỉ có ba chữ: LỢI VĨNH TRINH.
Nay bàn sâu rộng ra mới thấy Dịch là môn THẦN KHÍ HỌC. Quẻ Khôn, hào Dụng Lục được Trinh chính bền vững, được vĩnh cửu trường tồn, thì là lợi nhân ích đạo không sao kể hết.
Đạo Cao-Đài thờ quả CÀN-KHÔN tức là thờ ĐẠO TRỜI ĐẤT, tôi rất mong đạo hữu tìm học hai quẻ CÀN KHÔN cho thông suốt, thấu đạt lý nhiệm mầu. Phải có  đức tin và tập trung tư tưởng vào việc tu học mới hiểu biết được phần nào THẦN KHÍ của các quẻ, có thế thì đức tin Đạo mới trung thực, chân chính vững bền, giúp cho đời sống tu tiến của chúng ta được hòa nhập cùng Trời Đất. Đấy là đường “THIÊN NHÂN HIỆP NHẤT”.
Ý tượng của QUẺ BÁT THUẦN KHÔN: Thuận dã, nhu thuận, thuận lòng, mềm dẻo theo đường mà được lợi, hòa theo lẽ, chịu lấy, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh chi tượng.



HỌC HAI QUẺ LY KHẢM
Học quẻ CÀN KHÔN xong, đến quẻ KHẢM LY
Chúng ta học Dịch phải tìm hiểu ý Thánh nhân và khí tượng các quẻ. Vũ trụ bao gồm có hai khí âm dương, chân thể của âm dương là CÀN KHÔN. CÀN tượng Trời, KHÔN tượng Đất, nên đặt hai quẻ ở đầu kinh.
Trời Đất là trung tâm điểm của CÀN KHÔN, cái diệu dụng của tạo hóa ở trong Vũ trụ bắt đầu phát sinh là THỦY HỎA. THỦY HỎA là nguồn sống của muôn loài vạn vật. THỦY HỎA ĐẮC THIÊN ĐỊA chi Trung, nên đặt Khảm Ly ở chính giữa kinh, vì Khảm Ly đắc đạo Trung Chính.
THỦY HỎA đắc Trung, đắc Chính là vì sao?
 Nguyên Dịch lý có một Âm một Dương, thuần Âm thành ra Khôn, thuần Dương thành ra Càn, Càn lấy nét dương ở giữa mà giao phối với Khôn, Khôn biến ra Khảm . Khảm mới đắc Trung. Khôn lấy nét Âm chính giữa mà giao phối với Càn, Càn hóa ra Ly , Ly mới đắc chính. Khảm Ly đắc Đạo Trung Chính là nhờ Càn Khôn biết Hòa Duyệt , Hòa Duyệt nghĩa là Hòa Thuận đẹp lòng vui thích. Càn Khôn giao biến đúng thời đúng lúc mới được kết quả Khảm Ly.
Thánh nhân đem Đạo Trời Đất mà dạy con người ăn ở cư xử với xã hội nhân sinh phải Đạo Trung Chính mới xứng đáng con người sống trong Trời Đất.
Xưa nay, những người bất trung bất chính, hành động theo duy ý chí, phản thiên bội địa, chung cuộc rồi cũng thân bại danh liệt, lưu lại tiếng xấu cho đời, còn phần linh hồn bị đọa tam đồ nghiệp báo.
TƯỢNG QUẺ BÁT THUẦN KHẢM
 Thuần Khảm là quẻ trên và quẻ dưới đều là Khảm
Khảm nghĩa là hố sâu, hiểm trở.
Theo thể quẻ trên dưới hai âm, một hào dương ở giữa, thành ra một hào dương hãm vào giữa hai hào âm, nên đặt tên bằng Khảm là bị hãm.
Lại một nghĩa nữa Khảm là nước, không gì sâu hiểm hơn nước nên Khảm cũng có tượng hiểm.
Nguyên văn lời kinh: TẬP KHẢM, HỮU PHU, DUY TÂM, HANH, HÀNH HỮU THƯỢNG.
 Tập Khảm nghĩa là trên dưới đều là Khảm, Khảm vẫn là hiểm, hiểm đến hai lần, hiểm trung hữu hiểm, nên gọi bằng tập Khảm, tập nghĩa là hai lần, cũng như chữ trùng, tập Khảm cũng gọi là Trùng hiểm.
Người xử vào thời trùng hiểm, thấy hoàn cảnh rất nguy nhưng quan sát tượng quẻ thì vẫn không sợ hiểm, vì tượng KHẢM nhất dương ở giữa, mà dương là chân thật, ở chính giữa là tâm người ta. Tâm người ta đã có lòng chân thật, chí thành, tuy gặp hoàn cảnh hiểm mà tâm mình vẫn được hanh thông , lòng tin và đức chí thành của mình khiến mọi người cảm động, yêu mến, chẳng những không lo gì hiểm nạn, mà tiến hành mọi việc chắc hữu công, được người ta mến chuộng câu HỮU PHU DUY TÂM HANH là dạy người ta cái Đạo xử hiểm. Hoàn cảnh tuy hiểm mặc dầu, nhưng có đầy đủ đức TIN mà lòng chí thành chất chứa ở bên trong, thì tinh thần vẫn được hanh thông, việc làm vẫn được kết quả tốt. Người xưa có câu: “Bình sanh trượng trung chính, kim nhật thiệp phong ba”.
 Nghĩa là sống ở đời giữ được đức Trung Chính, ngày nay dầu gặp sóng gió cũng chẳng ngại gì.
Người Nhật có câu: TINH THÀNH SỞ CHÍ, KIM THẠCH NĂNG KHAI
Nghĩa là cái chí tịnh luyện cho đến tinh khiết thành thực, dầu cứng như đá vàng, cũng có đủ năng lực khai phá, cho nên thực hiện Đạo: HỮU PHU DUY TÂM HANH , nghĩa là có đức tin thật trong lòng, thì vượt qua khỏi hồi khảm hiểm nguy vậy.
Soán truyện có câu: THIÊN HIỂM BẤT KHẢ THĂNG DÃ, ĐỊA HIỂM SƠN XUYÊN KHƯU LĂNG DÃ, VƯƠNG CÔNG THIẾT HIỂM DĨ THỦ KỲ QUỐC, HIỂM CHI THỜI DỤNG ĐẠI HỶ TAI (Khưu lăng: gò đống, mồ mả, lăng tẩm).
 
Trên đã nói KHẢM là tượng hiểm, mà hiểm có hai phương diện, một là hiểm của Trời thuộc phần vô hình, mà Trời chỉ là vô hình, là không khí và ánh sáng, người không thể lên Trời được.
Hai là hiểm của Đất, Đất có núi sông, Cồn Gò, chốn cao thì khó trèo, nơi sâu thì khó lội, Thánh nhân bắt chước hiểm của Trời Đất mà đặt ra cách hiểm gọi là Nhân Hiểm. Để phòng ngự ngoại xâm nên có “Câu”, “Hào”, “Thành”, “Khoách” = ngăn chặn kẻ địch bên ngoài phải đào mương rãnh, hào hố, xây thành lũy, khuếch trương lực lượng quân bị; đề phòng nguy hiểm bên trong thì có chính trị, luật pháp, hình phạt, uy quyền, khen thưởng, dùng những cách hiểm đó để giữ nước nhà (thiết hiểm dĩ thủ kỳ quốc).
Cách xử thế trong thời hiểm rất lớn lao thay! (Hiểm chi thời dụng, đại hỷ tai!).
Quẻ Khảm có ý nghĩa về Đạo Pháp.
Khảm là Hãm, Dương thần bị lạc vào Hậu Thiên khí chất, bị vật chất bao bít vây hãm. Khảm cũng là thủy, tượng tinh khí của con người ở tại thận, Khảm trung mãn chánh Bắc, đương TÝ = quẻ Khảm ở giữa đầy, chính Bắc phương, Giờ Tý. Trong tâm quẻ Khảm “THỰC” vì có một hào dương ở giữa. Bên ngoài “HƯ” vì bao bọc hai hào âm.
Ở chính giữa quẻ có một hào dương, tượng một điểm chơn dương tức là ngươn thần bị rớt vào dục giới, phải bị hãm vây trong ám thất, giống như linh hồn bị giam hãm trong một thể xác.
Chúng sanh bị chìm đắm trong cảnh vật chất trần ai, nên chịu vô minh thống khổ, chịu đày đọa luân chuyển trong vòng luân hồi sanh tử, khó thoát khỏi nghiệp duyên ràng buộc; Nếu có được thiện duyên, một phen giác ngộ, thì đặng giải thoát luân hồi, phản bổn hoàn nguyên, hạnh ngộ tâm pháp Cao Đài, dụng công phu, công quả, công trình chuộc lấy tội tình lịch kiếp, được lập vị thiêng liêng chứng thành Đạo quả.
Ý TƯỢNG BÁT THUẦN KHẢM – Hãm dã, Hãm là hiểm, hãm vào trong, xuyên sâu vào trong, đóng cửa lại, gập gềnh, trắc trở, bắt buộc, kìm hãm, thắng lại.
“Khổ tận cam lai chi tượng” = Tượng hết khổ mới đến sướng.

BÁT THUẦN LY
Trên dưới trong ngoài thảy là LY.
Ly có nghĩa là Lệ thuộc, tượng quẻ một hào Âm ở giữa, lệ thuộc vào hai hào Dương nên gọi bằng Lệ. LY GIẢ LỆ DÃ.
Chữ Ly nghĩa là Lệ . Lệ là nương dựa, theo thể quẻ một nét âm ở giữa, nương tựa vào hai nét dương ở trên và dưới. Một nghĩa nữa Ly là Minh , vì chính giữa nét Âm đứt đôi, tức là ở giữa trống không, tượng quẻ là “TRUNG HƯ” Hư là sáng. Ly cũng là tượng Mặt Trời, là lửa, thảy là chất sáng soi.
Nguyên văn lời kinh: LY, LỢI, TRINH, HANH, SÚC TẨN NGƯU, KIẾT.

 Nguyên lai chữ Ly có nghĩa chính và nghĩa phản. Nghĩa chính là lệ thuộc hay nương tựa. Nghĩa phản là chia lìa.
Ở đây lấy chữ Ly là nương tựa, vạn vật không vật gì là không nương tựa nhau. Tỷ như: Loài chim nương tựa vào rừng, cá nương tựa vào nước, ánh sáng mặt Trời nương tựa vào địa cầu, cho đến loài người cũng phải nương nhau để sống, cha con, vợ chồng, anh em nương dựa vào nhau mà thành gia đình, bạn bè nương nhau mà nên đức nghiệp. Loài người nương tựa nhau mà thành dân tộc, xã hội. Nói đến sự sinh hoạt hằng ngày, nương tựa nghề nghiệp nào mà sống, dựa vào đường lối nào để đi, tất thảy đều gọi là: Hữ sở lệ nghĩa là có chỗ nương tựa.
Nghĩa chữ Ly lệ bao hàm rất rộng lớn, nhưng đường hướng nương tựa chia làm hai phương diện:
1. Một là nương tựa vào đường lối chân chính.
2. Hai là nương tựa vào đường lối vạy tà.
Ví dụ nương tựa vào người hiền, tốt, quân tử, Thánh nhân thì là chân chính. Nương tựa vào người ác, tiểu nhân, đạo tặc thì là tà. Vì hai lối nương tựa tương quan chánh tà, thiện ác. Như vậy, nên lời kinh nói: Ly, Lợi, Trinh, Hanh.
Người phải có chốn nương tựa, mà cốt nhất là nương tựa vào “Đạo nhân chính” thì mới được hanh thông.
Lời kinh còn thêm: Súc Tẫn Ngưu, nghĩa là nuôi con trâu cái là ý nghĩa gì? Ly nghĩa là đã sáng rồi, mà nếu sáng đến thái quá thì cũng có hại, ví như nước trong quá thì không có cá, người Minh sát = soi xét quá tỷ mỷ thì không có bạn bè đồ chúng theo. THỦY CHÍ THANH TẮC VÔ NGƯ, NHÂN CHÍ SÁT TẮC VÔ ĐỒ.
Để hạn chế trí minh sát, tức là phải minh thuận, là phải thu liễm lấy đức thuận (thuần âm) của mình, ví nuôi con trâu cái. Con trâu cái ở đây là tượng khí thuần âm. Khí chơn dương phát tán quá mạnh, thì phải dùng khí thuần âm ức chế mới được thuần thành.
Súc Tẩn Ngưu là nuôi con trâu cái, con trâu là thuần vật chậm chạp hiền lành, biết nghe lời, là tượng nuôi đức THUẦN ÂM, thuận, lời kinh thêm vào tượng ấy là sợ người ta quá dụng tài minh sát mà bạn bè đồ chúng phải xa lánh. Ý nói: gần mặt Trời nóng quá, không chịu nỗi nên phải xa lánh vào nơi bóng mát. Nguồn gốc của Ly là Càn, cũng như quẻ Khảm từ Khôn mà ra. Âm Dương tương phản mà lại tương hòa, Càn giao hòa với Khôn, nhận lấy một hào Âm của Khôn đặt vào tâm quẻ Càn, Càn biến thành Ly , Khôn liền nhận lại một hào dương quẻ Càn đặt vào tâm quẻ Khôn, Khôn biến thành Khảm , thế là Càn đã mất ngôi, Khôn thành thất vị, Trục Càn Khôn đã thay vào trục Ly Khảm. Ly thành thiếu Dương, Khảm thành thiếu Âm. Sự biến và hóa này phải theo một định luật TRUNG và CHÍNH mới thành. Khảm đắc Trung và Ly đắc Chính, Bát Quái Tiên Thiên mới thành Bát Quái Hậu Thiên. Trục Ly Khảm biến hóa ra nhiều dạng thức: ở Trời là mặt Trời, mặt Trăng. Ở đất là nước lửa, ở người là nam nữ, ở trong châu thân là tâm và thận hay Tinh và Thần.
Dưới đây là giảng theo Đạo Pháp, Ly là lìa, ly biệt. Lìa nơi nguồn gốc là Tiên Thiên Đại Đạo để nhập vào Hậu Thiên khí chất. Ly một hào Âm ở giữa hai Dương, nên gọi là Ly Trung hư, tượng quẻ trong hư ngoài thiệt. Vì hào âm ở giữa tâm nên tâm người bị thức thần làm chủ, đương quyền hành động, nên tâm thức con người luôn luôn bị xao động, chao đảo theo cảnh sắc hồng trần, không giây phút yên tịnh, con người muốn lãng vân tráng chí, nghĩa là có chí lớn muốn vượt ngoài vòng thế tục, tự do giải thoát, thì phải tìm học pháp Định tâm và Tịnh trí.
“Định tâm để tránh Thân giao động,
  Tịnh trí hầu mong Đạo đạt thành”.
Được vậy mới mong siêu phàm thoát tục, sống cuộc đời ung dung tự tại.
Ý tượng của quẻ: Thuần Ly = Lệ dã, sáng chói, sáng sủa, trống trải, trống trơn, tỏa ra, bám vào, phụ bám, phô trương ra ngoài:
“Môn hộ bất Ninh chi tượng” (Tượng nhà cửa không yên).

TÌM HIỂU ĐẠO TRUNG CHÍNH
Trong hai quẻ Khảm – Ly
Ý NGĨA TRUNG CHÍNH
Nhân lễ khánh thành Thánh Thất Trung Chính, tôi muốn toàn đạo tìm hiểu vì sao Thánh Thất này lấy Đạo hiệu Trung Chính? TRUNG CHÍNH có ý nghĩa gì với chúng ta trên bước đường tu học?
Đạo TRUNG CHÍNH xuất sinh từ hai quẻ Càn Khôn, đó là quẻ Ly và quẻ Khảm. Quẻ Ly tượng trưng cho lửa (Hỏa), Quẻ Khảm tượng trưng cho nước (Thủy). Nước, lửa là hai hành trong năm hành của Âm Dương Trời Đất. Nước lửa sanh thành được là nhờ Đạo Trung Chính.
Trung là ở giữa không thiên lệch, trung tâm điểm.
Chính là ngay thẳng, thích đáng, đúng đắn.
Trung Chính là Đạo hằng cửu, trung tâm vạn vật, ngay chính, thích đáng, bất thiên bất ỷ, không thiên tả, lệch hữu.
Trung ở đây nói về lòng trung nghĩa, người có nhiệt tâm mà không nóng nảy, trầm tỉnh mà không nguội lạnh, cẩn thận mà không hồ nghi, vẫn thung dung mà không chậm trễ. Thời chưa đến ai quyến rũ ta cũng không đi, thời đến rồi ai kéo lại ta cũng không lùi bước, đủ các phương tiện ấy mới là Trung Chính.
Càn Khôn là chân thể của Trời Đất, là nguyên tổ của Âm Dương, Khảm Ly là con của Càn Khôn là Trung Nam, Trung Nữ. Khảm Ly đắc Đạo Trung Chính, Khảm Ly làm nên công dụng của Thủy Hỏa, mà Thủy Hỏa là nguồn sống của muôn loài vạn vật.
 Nguyên Dịch lý chỉ có một âm - -, một dương –, thuần Âm thành Khôn , thuần Dương thành Càn , lấy nét chính giữa của quẻ Càn mà trao đổi nét giữa của Khôn, hóa thành Khảm, lấy nét giữa của Khôn mà trao đổi cho Càn hóa thành Ly nên nói Khảm Ly là Thiên Địa chi Trung.
Theo về phương hướng Khảm ở chính Bắc, Ly ở chính Nam.
Theo về thời gian thì Khảm là giờ Tý đúng giữa đêm, Ly là giờ Ngọ đúng giữa ngày.
Theo về nhân tâm thì Khảm là Trung thực là chí thành, Ly là Trung hư là chí Minh. Trung thực là lòng chắc thật gọi là thành, Trung Hư là lòng trống không ấy là Minh, Thành và Minh đều khởi tại tâm mà ra.
Càn Khôn sinh được Ly Khảm là nhờ Trung Chính, mà Khảm Ly cũng là Nam Nữ nên đạo dạy người đàn ông thì phải đắc Trung, Trung mất Chính thì đem lại hậu quả rất tai hại là:
Đạo suy đời bại, người xưa có câu:
“Bình sanh trượng Trung Chính,
  Kim nhật thiệp phong ba”.
Nghĩa là: Bình sanh giữ được Đạo Trung Chính.
Ngày nay có gặp sóng to gió lớn cũng không ngại gì.

 ĐẠO TRUNG CHÍNH TRONG HỘI THÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI
Cửu Trùng Đài có hai quẻ Khảm và Ly để hình thành Hội Thánh. Khảm là tượng phái Nam, Ly là tượng phái Nữ, hay nói trong thân người là Tâm và Thận.
Khảm Trung mãn, là tượng cho Nam, Ly Trung Hư là tượng cho Nữ. CànKhôn là Âm Dương, Âm Dương giao phối biến dịch, Càn lấy một hào âm - - ở giữa quẻ Khôn, biến Càn thành Ly, Khôn lấy một hào dương ở giữa quẻ Càn biến Khôn thành Khảm Càn Khôn đã thất vị lạc hạ trở thành Hậu Thiên, nên gọi Khảm là Thiếu Âm, Ly là Thiếu Dương, hay là Nhựt Nguyệt ô thố, ở trong người là Tâm Thận, ở vạn vật là trống mái, ở người là Nam và Nữ.
Ly là lìa, lìa nơi Tiên Thiên Đại Đạo, Ly cũng là Hỏa, Trung Hư chánh Nam đương Ngọ, tượng quẻ trong hư ngoài thực là vì hai hào dương ở ngoài, một hào Âm ở trong, tâm người bị thức thần làm chủ đương quyền, mới sinh vọng động, đó là tượng trưng phần đời, mà cũng tượng trưng cho Nữ phái.
Khảm là hãm, chơn Thần lạc vào Hậu Thiên khí chất bị hãm nên mê muội vô minh, Khảm là tượng trưng phẩn Đạo mà cũng chỉ cho nam phái. Khảm cũng là Thủy chánh Bắc đương Tý. Trong thực ngoài hư, là vì bên ngoài bọc hai hào Âm, trong có một hào Dương, tượng một điểm chơn dương tức là chơn Thần bị rớt vào dục giới, phải bị hãm vây trong ám thất, cũng như phần hồn bị chìm đắm trong vật chất, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ trần ai, chịu luân chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, khó thoát khỏi nghiệp duyên ràng buộc, nếu một phen được ơn Thầy khải thị, tinh thần giác ngộ thì cũng đặng phản bổn hoàn nguyên, nhờ công phu công quả chuộc lấy tội tình, thì cũng đặng thành chánh quả.
Khảm tuy có một hào dương ở trong, hai Âm ở ngoài, mà Dương cương lại đắc trung, nên số ít bao giờ cũng làm chủ số nhiều. Ly có hai hào dương bọc ngoài, một Âm ở trong, Âm lại đắc chính, nên tuy ít vẫn làm chủ dương hào.
Trung Chính là Đạo của Càn Khôn Trời Đất, nên Dương phải cậy Âm mà sanh, Âm phải thuận Dương mà thành, hòa hợp nhau để thành tựu, mà phản nghịch nhau thì rối loạn, gây thành tội ác. Ly là Âm mà đứng ở trên, chủ phần Tâm Hỏa vì Ly có hai hào dương, một hào Âm nên nhẹ nhàng hơn mà thăng lên.
Khảm, một hào dương hai âm, nặng nề hơn nên bị chìm xuống, chủ phẩn thận thủy, nếu trên dưới biết phối hiệp nhau, tức là quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, sách Dịch gọi là chiết Khảm điền Ly, Càn Khôn phục vị: Bổ Tiên Thiên thì tinh thần sáng suốt, gọi là Ly đắc nhất trở thành Càn mà thăng lên thiên thượng.
Khảm đắc nhất trở thành Khôn, tức là Hậu Thiên được bồi bổ, thì thân thể khỏe mạnh, mà vạn vật cũng được an bài, đây cũng là pháp “An Thiên Định Địa”.
Phép Thủy Hỏa Ký Tế, tinh thần hợp nhất là nhờ Pháp môn luyện khí công, khí đem THẦN (lửa) xuống với Tinh (nước) rồi đem Tinh lên với Thần, Tinh Thần giao hòa là nhờ Khí, cũng như nước với lửa có hòa nhau mới thành tựu công đức, mà nước lửa hòa là nhờ gió (phong), cho nên Đạo Đất cũng đủ Ba Báu: Thủy, Hỏa, Phong, nên Đức Hộ Pháp kiến tạo Cửu Trùng Đài phải có nghinh phong đài là vậy.

QUẺ SƠN LÔI DI:
Quẻ Sơn Lôi Di ở trên là quẻ Cấn Sơn =  Núi (ngoài)
Quẻ dưới là Chấn Lôi = Sấm (trong).
Nên gọi là quẻ Sơn Lôi Di.
Nguyên văn lời kinh: DI, TRINH CÁT, QUAN DI, TỰ CẦU KHẨU THỰC.
Chữ Di có hai nghĩa: 1. Nuôi dưỡng.
                                      2. Hai gò má.
Chữ Nuôi có nghĩa như chữ Dưỡng, như dưỡng sinh, dưỡng khí, dưỡng Đức, dưỡng Thần. Đây là chữ Di thuộc về động từ.
Chữ Di thuộc về danh từ như: Gò má, cằm, miệng.
Chữ Di ở đây có nghĩa là nuôi, tất cả mọi người ở trên đời này đều cần được nuôi mới sống. Nuôi có hai phần: phần xác và phần hồn. Nuôi đạo đức, nuôi chí khí, nuôi tâm thuật, nuôi tinh thần, nuôi trí thức đó là nuôi về phần linh hồn.
Nuôi thân thể, nuôi vật chất, nuôi khẩu phúc, nuôi hình thức đó là nuôi về phần xác thịt.
Các nhà tôn giáo, nhà Bác học, nhà mỹ thuật vẫn chú trọng phần nuôi trí thức, nuôi linh hồn, nhưng cũng phải nuôi phần xác thịt.
Các nhà công, nông, thương, nhà lao động vẫn chú trọng phần nuôi xác thịt, nhưng cũng không thể bỏ phần linh hồn.
Tuy nhiên phương pháp và qui mô có hai đường lối chính và bất chính. Giả như nuôi linh hồn bằng lối mê tín huyễn hoặc ấy là bất chính. Nuôi xác thịt bằng cách nô lệ, gian tham, ty tiện, hủy hoại lương tâm ấy là bất chính.

 Vậy nên, Thánh nhân dạy: DI, TRINH CÁT
Nghĩa là bất luận công việ nuôi mình hay nuôi người cũng phải thật chính mới được tốt đẹp.
Nếu như công việc nuôi mình hay nuôi người mà phạm vào điều bất chính, bất liêm, ấy là hạng người tiểu nhân, nên Thánh nhân lại bảo rằng: Chỉ xem ở cách nuôi dưỡng người, với cách tự cầu nuôi mình thì thiện, ác, kiết hung, có thể đoán trước được.
QUAN DI, TỰ CẦU KHẨU THỰC
 
Quan Di = xem xét ở cách nuôi người, tự cầu khẩu thực, nghĩa là xem ở cách tự nuôi mình, một chữ quan gồm cả hai mặt: Xem việc nuôi người, xét việc nuôi mình để biết rõ việc nuôi dưỡng có được chính hay bất chính, nếu cả hai đều được chính là cát mà bất chính là hung.
Xưa nay, việc nuôi dưỡng người ta thường chú trọng phần thể xác, còn phần tâm linh (phần hồn) ít ai chịu nuôi dưỡng và nếu có người muốn nuôi phần Tâm Linh cũng không biết nuôi bằng phương pháp nào? Con người tuy có một xác thân, nhưng trong thân có ba phần báu trọng gọi là Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần, ba thể này biết nuôi dưỡng, thì thân thể được tráng kiện, Khí Thần được trong sạch nhẹ nhàng siêu thoát, qua cõi thiêng liêng hằng sống.
1. Ăn uống thực phẩm ngũ cốc thanh sạch để nuôi tinh huyết bồi dưỡng xác thịt khỏe mạnh, nên người ta cần ăn chay.
2. Hít thở đúng cách để nuôi dưỡng phần chánh khí dồi dào sung mãn.
3. Tịnh định, luyện khí công để nuôi dưỡng phần tinh Thần sáng suốt thông linh.
Học quẻ Di phải thực hành ba điều ấy mới đúng nghĩa.
Thầy Mạnh Tử có dạy: Ngã thiện dưỡng ngô hạo nhiên chí khí.
Nghĩa là ta khéo nuôi dưỡng chí khí rất lớn rất cứng của ta.
Cũng có câu: Dưỡng kỳ đại thể vi Đại nhân, dưỡng kỳ tiểu thể vi tiểu nhân:
Nghĩa là nuôi lấy phần thể lớn của mình là Đạo nghĩa, là linh hồn thì làm Đại nhân. Nuôi lấy phần thể nhỏ của mình là khẩu phúc là xác thịt là tiểu nhân. Xét lời Thánh nhân dạy thì con người ai ai cũng phải nuôi phần xác và phần hồn, nhưng phần xác sống có giới hạn vì nó là vật chất không tồn tại lâu, còn phần hồn là một linh thể sống vĩnh cửu trường tồn, nên người đại nhân quân tử họ chú trọng nuôi dưỡng phần tâm linh sáng suốt là hơn cả. Cách nuôi phần tâm linh sáng suốt tôi có chỉ bày trong Bửu Pháp Qui Tức, hãy tìm xem.
Dưới đây, tôi giải thích Hào Sơ cửu trong quẻ “Di” để cùng nhau thấy sự hô hấp là điều yếu quyết trong sự sống hằng ngày, đối với tu luyện khí công lại càng tìm hiểu sâu xa. Nguyên văn hào từ: XẢ NHĨ LINH QUI, QUAN NGÃ ĐÓA DI.
 Cụ Ngô Tất Tố một học giả của Kinh Dịch, Dịch hào sơ cửu như sau: “Bỏ con Rùa thiêng của mày, xem ta trễ mép, hung, hào sơ dương ở thế động, lại ứng với hào lục tứ. Âm có sức hấp dẫn, sơ cửu dương vì lòng ham muốn, tự mình làm mất bản lĩnh của mình, hào dương mà theo hào âm, thì còn có việc gì mà nó không làm, thế nên hung! Đóa Di là trễ mép, người ta thấy đồ ăn mà phải trễ mép nhỏ dãi, cho nên mới dùng làm tượng.
Cụ Phan Sào Nam giảng hào sơ cửu.
Xả là bỏ, Linh Qui là con Rùa thiêng, đóa là dũ thọng, Di là cằm mép, đóa di là dũ thọng cằm mép. Linh Qui là giống chỉ nuôi hơi mà không ăn. Ví dụ: Linh trí của người sáng. Đóa Di là tượng người thấy đồ ăn mà thèm nên dũ thọng cằm mép xuống.
Chữ nhĩ chỉ bản thân sơ cửu, chữ ngã chỉ cho Lục Tứ, ý Thánh nhân mượn tứ để để nhiếc sơ rằng: Sơ ơi! Mày bỏ óc khôn Linh Quy của mày (xả nhỉ Linh Quy) cứ dòm vào ta mà thọng cằm xuống (Quan ngã đóa Di) thiệt là quá xấu, nghĩa hào từ này chỉ thích mặt chữ là như thế. Nhưng lấy nghĩa mà nói tắt lại là tức giận cho sơ mà mắng rằng: Bỏ Linh Hồn khôn của mày mà chỉ chăm ở phần nuôi xác thịt có gì là tốt đâu. Tượng viết: QUAN NGÃ ĐÓA DI, DIỆT BẤT TÚC QUÝ DÃ.
 Sơ Cửu dương cương, dương vẫn đáng quý, nhưng mà mê hoặc vì tư dục, dù có tài dương mạnh cũng không đáng quý (diệc bất túc quý dã). “Kinh Dịch cấu hình tư tưởng Trung Quốc” giải thích hào sơ cửu quẻ Di như sau: Không ngó ngàn gì đến kho tàng quý báu chứa trong bản thân, lại đi dòm ngó tài vật nhỏ mọn của người khác sẽ gặp chuyện xấu thôi.
Nguyễn Hiến Lê dịch: Chú bỏ con Rùa thiêng (tượng trưng phần tinh thần quý báu) của chú đi, mà cứ ngó ta tới xệ mép xuống, xấu.
Nguyễn Duy Hinh dịch: Bỏ con Rùa thiêng của mày, nhìn ta xệ mép xuống, Hung.
Trương Thiện Văn và Hoàng Thọ Kỳ giải nghĩa: Vứt bỏ bản chất tốt đẹp như con Rùa linh của mình đi, mà nhìn ta xệ má ăn uống thì sẽ có nguy hiểm.
Từ Tử Hùng dịch: Tự mình tàng trữ tài vật số lượng lớn, lại còn thèm muốn của cải người khác, chắc chắn sẽ gặp sự nguy hiểm.
Ông Wilhelm một học giả người Đức dịch: Một người bản chất tự nhiên và vị trí xã hội đang thích hợp để sống tự do và độc lập, lại đi tự bỏ cách sống tự mình trông dựa vào mình, để nhìn ngắm kẻ khác một cách bất mãn và ghen ghét, chỉ vì kẻ đó nhìn bề ngoài có vẻ sống trong cảnh ngon lành hơn mình, những sự ganh tỵ đê tiện như thế chỉ khiến kẻ khác khinh bỉ cười chê mà thôi, điều này gây ra những hậu quả xấu.
Đọc các lời giải thích hào sơ cửu của Quẻ Di, tôi thấy chưa thỏa mãn, vì các học giả chưa tâm đắc tinh nghĩa của nó.
Tôi xin thích nghĩa theo sự tìm hiểu, cảm như toại thông hào cửu sơ của quẻ Di như sau: xã là bỏ, nhĩ là mày, tiếng chỉ người hay vật gì, Linh Quy là tinh thần trong ta, quan là quan sát nhìn ngó. Ngã là ta, tôi, mình, cái là mình coi là của mình, đóa là bông hoa Di là hai gò má.
Câu Xả nhỉ Linh Quy, quan ngã đóa Di nghĩa là: Anh tự bỏ con Rùa Thần (Linh Hồn) ở trong anh (xá nhỉ Linh Quy) say mê người phụ nữ có đôi má đẹp như hoa, đó là điều xấu (quan ngã đóa Di, hung). Người thanh niên muốn thưởng thức cái đẹp của phụ nữ, trước tiên là thích hôn đôi má hồng xinh đẹp, từ đó bị sa ngã dẫn đến tình yêu phàm tục, khi lòng dục khiến sai, tinh thần hôn ám, không đủ can đảm dập tắt lửa tình, tất nhiên là đánh mất Linh Quy là Linh Khí do tinh hóa sinh ra, vì tinh hoa thì khí tán, tinh thần bị hôn ám, đâu còn trí tuệ nữa nên gọi là hung.
Sơ cửu là hào dương cương lại cảm ứng với hào lục tức âm nhu, lại là người phụ nữ thượng cấp có nhan sắc, có địa vị, tuy sơ cửu có tài trí, hiếu động, lại ở vào địa vị thấp trong tầng lớp xã hội, nhưng vì tương ứng quá nhạy cảm với lục tứ, nên sơ cửu (chàng thanh niên) say đắm sắc đẹp, đành bỏ mất thần minh (Linh Quy) của mình, chạy theo lòng ham muốn tình dục thấp hèn, đây là điều đam mê sa ngã rất phổ biến trong xã hội. Khi thả khang dục tận thì tinh khô huyết cạn, thần linh đâu còn, đó là: Xả nhỉ Linh Quy có thơ rằng:
“Nữ sắc đang xuân dáng mỹ miều,
  Tay cầm huệ kiếm chém người yêu,
  Chém hoài chẳng thấy đầu người rụng,
  Thỏn mỏn hại người thần khí tiêu”
Tìm hiểu Kinh Dịch là tìm nơi THẦN KHÍ, KINH DỊCH là một thể linh, Giáo Sư Kim Định nói: Dịch Kinh linh thể Thánh nhân định nghĩa chữ Dịch: Dịch, vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ. Giải nghĩa: Dịch là bản thể chơn như, vô tư, trung dung yên lặng, không hành động, mà mọi việc trong thiên hạ đều cảm ứng, đều có can thiệp vào một cách tự nhiên.
 Khí tượng của quẻ Di = nuôi, dung dưỡng.
PHI LONG NHẬP UYÊN CHI TƯỢNG (Rồng vào vực nghỉ ngơi)

QUẺ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Quẻ trên là quẻ Đoài (trạch = ao hồ)
Quẻ dưới là quẻ Tốn (phong = gió).
Nên đặt tên quẻ bằng Trạch Phong Đại Quá.
Đại quá có hai nghĩa:
1. Theo tượng quẻ thì dương bốn hào nhiều quá, Âm chỉ có hai hào, dương thì nhiều hơn âm thế là Đại Quá.
2. Lại một nghĩa nữa là lớn quá, tỷ như đạo đức công nghiệp của Thánh hiền lớn quá, vượt lên trên mọi người, ấy là Đại Quá. Chữ Quá là đối lập là bất cập. Đại Quá là công việc quá chừng lớn. Sử ký có câu: Duy phi thường chi nhơn, nãi hữu phi thường chi sự. Phi thường chi sự dĩ đãi phi thường chi nhơn. Phi thường chi sự, phi thường chi nhơn, chi sở năng biện dã.
Nghĩa là tất có người phi thường mới làm nên việc phi thường mà những việc phi thường tất phải chờ đến người phi thường. Bởi vì những việc phi thường quyết không phải những hạng người thường làm nổi. Đó là chính nghĩa chữ ĐẠI QUÁ. Quẻ ĐẠI QUÁ ở sau quẻ Di rất hay, xưa nay Thánh hiền hào kiệt, trước khi chưa làm việc Đại Quá, tức phải tiềm tàng ẩn súc, trải nhiều năm súc dưỡng đầy đủ thần khí, rồi sau gặp thời Đại Quá mới đem ra ứng dụng.
Nguyên văn lời kinh: ĐẠI QUÁ, ĐỐNG NẠO, LỢI HỮU DU VÃNG, HANH.
 Đống là nóc nhà, người có tài gánh vác được việc quan trọng lớn cho nước gọi là đống lương.
Nạo là cong, chịu uốn mình theo người.
Xem tượng quẻ, bốn hào dương ở giữa, hai hào âm hai đầu, dương quá ư cường, âm quá ư nhược, tượng như cây cột nhà chính giữa quá lớn, mà hai đầu quá bé, thành ra sợ đứng không thẳng mà cong quẹo. Ở đây ta nên hiểu đống là lương đống nghĩa là người gánh vác được việc lớn cho quốc gia xã hội, người đó phải là bậc chấp Trung, cây cột ở giữa lớn hai đầu nhỏ, ý nói tăng cường đạo trung cho to lớn, còn hai đầu thiên tả lệch hữu thì thu nhỏ lại, tùy cơ mà uốn nắn cho nó theo đạo Trung vì thời âm nhược, dương cường, chính là lúc quân tử thịnh, tiểu nhân suy, đây chính là cơ hội làm nên sự nghiệp lớn, nên kinh nói rằng: LỢI HỮU DU VÃNG.
Luận giải về đức của quẻ, hai hào ở chính giữa nội quái và ngoại quái là hào NHỊ và hào NGŨ ở vào thời Đại Quá vẫn là dương cương, sợ e đạo dương thịnh quá, nhưng dương cương không thái quá vì hào nhị và hào ngũ thảy đều đắc Trung, ấy là cương quá nhi Trung.
Lại nữa quẻ Đoài và quẻ Tốn, hai quẻ có tính đồng thuận, vui vẻ, Tốn có tính thuận, Đoài có tính hòa duyệt cùng nhau giúp đời thì đời sẽ được hanh thông.
Vào thời Đại Quá mà đủ cả ngần ấy đức thi thật quá tốt, nên kinh nói: LỢI HỮU DU VÃNG HANH
Người có tài Đại Quá mới làm nên việc Đại Quá, xưa nay những bậc “TOÀN CÀN CHUYỂN KHÔN, HÂN THIÊN YẾT ĐỊA” nghĩa là: Xoay chuyển từ Càn qua Khôn, Trời vui Đất biết, nếu không gặp thời thì dễ gì mà làm được đâu!
Nên Thánh nhân có lời tán dương rằng: to lớn vậy thay thời của Đại Quá. Đại quá chi thời đại hỷ tai!
Đại Quá còn có một ý nghĩa nữa như sau: Trong đại tượng truyện có câu: Trạch diệt Mộc, Đại Quá, quân tử dĩ độc lập bất cụ, Độn thế vô muộn.
Theo tượng quẻ Đoài là tượng nước, Tốn dưới là tượng cây gỗ. Nước ở trên mộc là tượng nước ngập lút cây, ấy là tượng Đại Quá. Nước nuôi dưỡng Mộc, nay nước ngập lút cây, e mộc phải chết, thời Đại Quá này đã đến mức độ thái quá, không còn giữ được Đạo Trung, nên có thể đưa đến nguy hiểm.
Người quân tử phải xem xét kỷ lưỡng, thấy xa, hiểu rộng, công trình Đại Quá là vì nhân chính, vì Đại nghĩa, thì mình có bổn phận phải dấn thân, dù gặp phải thiên ma bách chiếc cũng không sờn lòng nãn chí. Nhưng nếu công trình Đại Quá vì mục đích căm thù, vì phe đảng, vì quyền lợi riêng tư, thì người quân tử quyết không tham gia vào phong trào Đại Quá ấy. Vẫn đứng riêng một mình không sợ ấy là Dĩ độc lập bất cụ.
Nếu thiên hạ tất thảy a dua hành động theo phong trào, mà mình không làm theo, vì thấy cái kết quả của Đại Quá là “Trạch Diệt Mộc” nước tiêu diệt hết cây cối.
Nhưng đứng trước phong trào đang ồ ạt dâng lên mà mình không tham gia, tất nhiên trái với con mắt của phàm nhân thế tục, âu là ta nên trốn bỏ cõi đời, tìm nơi thanh vắng để nuôi dưỡng chí khí Đạo Tâm, mới thoát được cạm bẫy của đời, tinh thần mới được tự do tự tại, đó là: ĐỘC LẬP BẤT CỤ, ĐỘN THẾ VÔ MUỘN.
Đức Khổng Tử có nói: NHÂN GIẢ BẤT ƯU, DŨNG GIẢ BẤT CỤ.

Nghĩa: Người có lòng nhân thì không còn lo lắng.
Có dũng khí thì chẳng sợ ai.
Mạnh tử cũng nói: BẦN TIỆN BẤT NĂNG DI, UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT.
Nghĩa là: Nghèo hèn không thay đổi khí tiết, vũ lực không làm mình khuất phục.
Ý tượng Quẻ Đại Quá = cả quá, thái quá.
Nộn thảo kinh sương chi tượng (Cỏ non bị sương tuyết).

QUẺ PHONG TRẠCH TRUNG PHU
Quẻ Tốn ở trên tượng Phong (gió)
Quẻ Đoài ở dưới tượng Trạch (ao hồ)
Nên đặt tên quẻ là Phong Trạch Trung Phu.
QUẺ TRUNG PHU: Đức tin chân thật, sự thành tín trong lòng. Xem tượng quẻ. Quẻ này, nội quái hai hào dương, ngoại quái hai hào dương đều là TRUNG THỰC.
Ở chính giữa hai hào âm lại là TRUNG HƯ. Trung hư là hư kỳ tâm, trong lòng trống không, không chấp chứa tư dục, lòng ham muốn riêng tư.
Trung thực là trong lòng chứa lẽ thật, tình thương, chân tính hay Chơn Thần. PHU nghĩa là đức tin, tin gốc ở trong lòng, thì đức tin mới chắc chắn. TRUNG PHU cũng đồng nghĩa với Chí Thành.
Soán từ: Lời đoán ý nghĩa của quẻ.
TRUNG PHU, ĐỒN NGƯ CÁT, LỢI THIỆP ĐẠI XUYÊN, LỢI TRINH.
 Giải nghĩa: Trung phu tượng trưng cho sự thành tín trong lòng, cảm hóa được mọi người, như giống cá heo rất tốt, vượt qua sông lớn không ngại, kiên trì chính đạo có lợi.
Trong thiên hạ, khi tin một cái gì lúc ban đầu đức tin rất mạnh mẽ, làm việc rất hăng hái nhiệt tình, nhưng nữa đường thường hay lơ là buông thả, bán đồ nhi phế, cho nên khi đặt đức tin vào một cái gì, một tôn giáo hay một chủ nghĩa … phải tìm hiểu tường tận, khi đã tin rồi thì phải hết lòng chuyên nhất, như thế là TRUNG PHU.
Đại Học có câu: TRI CHỈ, NHI HẬU HỮU ĐỊNH, ĐỊNH NHI HẬU NĂNG TỊNH, TỊNH NHI HẬU NĂNG AN.
 Nghĩa là gặp việc phải tìm biết đến nơi rốt ráo, rồi sau mới định tâm, định rồi mới tịnh, tịnh được thì tâm trí mới được yên ổn.
Đồn ngư cát () xưa nay các sách Dịch đều giảng giải Đồn Ngư là con heo và con cá, các Dịch giả giảng: Heo và cá là giống ngu xuẩn, người có lòng thành tín, heo cá còn biết cảm động, thì trong thiên hạ có giống gì mà không cảm động được.
Theo tôi hiểu: ĐỒN NGƯ là con cá heo, như cá heo là loài động vật, mà tạo hóa ban cho nó có đức TIN THÀNH, nó rất khôn ngoan, biết vâng người nuôi dạy, nó biết mà việc theo ý chủ sai khiến và trung thành biết ơn người nuôi dưỡng nó. Đức chí thành của cá heo làm cho người thương mến cảm động, ý nói: con vật còn có đức tín thành, huống làm người lại vô tín hay sao? Ấy là nghĩa Đồn Ngư cát.
Người có đức tin dù nguy hiểm gian nan, tượng như qua sông lớn, gặp sóng to gió lớn, vẫn vượt qua vì không sợ sệt mà đức tin còn có thể dẹp yên được sóng gió, tâm bình thế giới bình, đó là: LỢI THIỆP ĐẠI XUYÊN.
Nhưng đức tin phải đặt đúng chỗ, phải tin đường chính đạo mới có kết quả tốt là LỢI TRINH.
Quẻ Trung Phu gồm có hai nghĩa là Trung Hư và Trung Thực.
Trung có hư mới đặt thành tín vào được.
Trung có thực thì giả dối không lọt vào, nói tắt là gôm vào hai chữ “TRUNG TÍN” mà chung kết là lấy Đức Trinh Chính.
Dưới đây tôi giải hào sơ cửu để làm sáng tỏ thêm Đạo Trung Phu. SƠ CỬU – NGU CÁT, HỮU THA, BẤT YẾN.
Ngu: lo lắng, dự bị, sợ sai lầm, trông mong, đắn đo.
Tha: khác, không phải.
Yến cũng đọc là yên: chim én, yên ổn, nghỉ ngơi, tiệc rượu.
Ngu ở đây có nghĩa là yên ổn, ngu an dã.
Ngu cũng có nghĩa là lễ An Thần.
Người ta thường gọi là làm ngu, nghĩa là sau khi chết, đem xác chôn xong, về nhà tang chủ tổ chức lễ làm ngu, tức là làm lễ An Thần để con cháu thờ vong linh. Làm ngu với mục đích là để cho người chết Thần an Khí định, vì Thần Khí con người còn mãi, xác mất chớ Thần Khí không mất. Người có đức tin phải tìm biết phần Linh Hồn là chơn thật và tồn tại, nên làm lễ An Thần sau khi chết tức làm ngu là tốt “Ngu kiết”.
HỮU THA BẤT YẾN nghĩa là có ý nghĩ khác xen vào trong lúc làm lễ An Thần là không yên ổn.
Khi hành lễ An Thần, phải tập trung tư tưởng chú tâm, định trí, nơi ngôi Thần Chủ, nếu có suy nghĩ vọng tưởng điều gì khác, thì tâm không được yên ổn, mà tâm trí không yên thì NGÔI THẦN khó an trụ. Học quẻ TRUNG PHU đặc biệt là phải đặt đức Tin vào ngôi Thần Chủ. Con người có ba món báu là: TINH, KHÍ, THẦN mà Thần là ngôi vi chủ, cho nên người tu theo Đạo Cao Đài, muốn tu học sáng suốt tin và tu đến nơi đến chốn, thì gia đình phải thờ Thầy và làm lễ “Trấn Thần an vi”.
Muốn Trấn Thần được kết quả, thì người Pháp Sư có đủ điễn quang Thần Lực, để có Thần Linh thì phải tịnh luyện pháp môn AN THỔ ĐỊA. Pháp môn này giúp người tu có đủ tài đức mà giúp đời, hành đạo.
CÂU CHÚ AN THỔ ĐỊA
                         “Công Thổ Địa nguy nguy Tài Đức,
                          Hiển oai linh ra sức độ đời;
                               Giúp người tâm chí chẳng dời,
                      Lòng thành kính lạy Phật Trời, tụng kinh”.
Ý nghĩa PHÁP AN THỔ ĐỊA như thế nào?
PHÁP AN THỔ ĐỊA tức là PHÁP AN VI, mục đích là làm cho Trời yên, đất định (An Thiên, Định Địa) Trời thanh đất liêm mà Trời đất đây là ở trong châu thân con người, Trời là hồn, đất là thể xác.
An vi là an trụ nơi “Linh Khí”, nơi tâm linh bao trùm tất cả, nơi chân lý tuyệt đối. Ví dụ: ta nói duy tâm, người lấy duy vật phản bác, ta nói vô thức có kẻ phản biện lại là Ý Thức.
Ta gọi vô lý có kẻ nói là hữu lý, thái độ hữu vi, duy lý, thì có thái độ vô vi, vô thức phản động lại.
Thái độ An Vi nhận xét rằng: Nếu nói hữu vi là nhất tán, hay nói vô vi là nhất tụ, thì cũng còn trong vòng chấp nhất. Tán và tụ đều đồng hành thành hai diễn trình của một bản thể. Đạo không ở bên tán hay bên tụ, bên âm hay bên dương, nhưng ở trung tâm điểm là ngôi “HƯ NHẤT” gồm cả Vô Cực và Thái Cực ôm cả Âm và Dương, Tán và Tụ, nên Nho Giáo gọi là Trung Dung bài Khai Kinh của Đạo Cao Đài có câu:
“Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,
  Từ bi Phật dặn làm lành lòng nhân …”
Nhận thức An Vi hay An Thổ là như thế.
PHÁP AN THỔ ĐỊA
Trong Bát Quái Hậu Thiên có đủ năm hành.
Nhất Lục Thủy (1+6) cộng 7.
Nhì Thất Hỏa (2+7) cộng 9.
Tam Bát Mộc (3+8) cộng 11.
Tứ Cửu Kim (4+9) cộng 13.
Ngũ Thập Thổ (5+10) cộng 15.
Các số Ngũ Hành đều bất bình đẳng.
Số thành của Thổ là số 15, số của Phật Mẫu Diêu Trì. Bốn hành Thủy, Hỏa, Kim, Mộc muốn hòa hiệp để về thống nhất với THỔ phải vận dụng Ma Phương sao Thổ, hay là Lạc Thư nghịch khắc để khí hóa ngũ hành, năm khí mới hiệp nhứt, mười phương mới được bình đẳng, tám hướng đều được số 15, cho nên nói con số 15 là số huyền (thập ngũ Lạc Thơ vị chi huyền) con số cửu dương lục âm cộng lại (9+6) con số âm dương quân bình.
BẢN SỐ LẠC THƯ

Khi luyện khí công đạt đến huyền khí của Đức Mẹ Diêu Trì thì Diệu Lý của Thầy cảm ứng đến, cho nên người tu pháp An Thổ Địa được rồi thì người đó có đủ tài đức, hành pháp có công năng huyền diệu trừ ma khử quỷ, an bang tế thế, độ dẫn quần sanh xây dựng đời Thánh Đức, người đã được khai minh trí huệ. Đây là kết quả của Đạo Trung Phu.
Khí tượng quẻ Trung Phu – Tìm trong lòng trung thật.
Khai tại nội nhi đắc trung chi tượng.



QUẺ LÔI SƠN TIỂU QUÁ
Quẻ trên là quẻ Chấn Tượng Lôi (Sấm)
Quẻ dưới là quẻ Cấn Tượng Sơn (Núi)
Đặt tên quẻ là Lôi Sơn Tiểu Quá.
Ý nghĩa quẻ Tiểu Quá:
Tiểu = nhỏ ít.
Quá = Cái gì làm quá Đạo thường gọi là quá, ví dụ: Quá hậu, quá bạc, quá lớn, quá nhỏ.
Cũng có một nghĩa nữa tiểu quá là lỗi nhỏ.
1. Theo thể quẻ hai hào dương ở giữa, bốn hào âm bao bọc, dương ở giữa ít, bị âm nhiều che đậy, nên bị tối tăm mà có lỗi nhỏ, gọi là Tiểu Quá.
2. Quẻ Tiểu Quá: Lục Nhị, Lục Ngũ là hào âm nhu ở vị trí đắc trung. Vì vậy nên làm việc nhỏ thì cát.
Theo tượng quẻ: Chấn là tượng Sấm, Cấn là Tượng núi, núi thì cao, mà sấm trên trời cao hơn núi, tiếng sấm bị nghẹt với núi, phải thu súc lại mà nhỏ đi nên tượng là Tiểu Quá. Quân tử xem ở tượng ấy, biết ở thời này chưa làm được việc Đại Quá, nên làm việc tiểu quá mà thôi. Đây giải về phương diện hình thể, còn nói khí tượng của quẻ thì núi cao đứng vững, sấm nổ gần núi cao, ắt nghe thấy tiếng lớn. Khi nghe thấy tiếng sấm sét thì ai cũng sợ hãi trong lòng, mà không dám làm điều càn bậy, vì sấm tượng trưng cho oai lực của Trời, nên có hành vi phạm tội, cũng chút đỉnh nên gọi là Tiểu Quá.
Người quân tử gặp thời điểm tiểu quá, giữ được lòng cung kính, ngay thẳng, làm những điều nhân nghĩa đạo đức, nếu có quá đi một ít cũng Hanh, Lợi, Cát.
Đức Khổng Tử nói: Quân tử úy thiên mệnh nghĩa là người quân tử sợ mệnh Trời, người quân tử vì cảm và thấy có trời, mà trời là chúa tể cả Càn Khôn thế giới. Ta đã được Trời phú cho cái tánh thiêng liêng, ta phải tỏ rõ đạo hạnh, bắt chước theo cái Đức của Trời, lấy lòng thành thực, lấy đức cung kính mà thờ Trời, nên đức Khổng Tử nói: TU KỶ DĨ KÍNH.
Biết cung kính mới biết tôn ti, trật tự, biết người trên kẻ dưới, biết điều thiện, điều ác, kẻ giỏi người dở, cho nên sự thành thực, cung kính là gốc luân lý đạo đức của con người, chỗ dừng chỉ của mọi hành động ( ) mà nếu hành động có quá đi cũng đến mức đó thôi, ấy là Tiểu Quá.
Nguyên văn lời kinh: TIỂU QUÁ, HANH, LỢI, TRINH, KHẢ TIỂU SỰ, BẤT KHẢ ĐẠI SỰ, PHI ĐIỂU DI CHI ÂM, BẤT NGHI THƯỢNG, NGHI HẠ, ĐẠI KIẾT.
Giải nghĩa: Quẻ Tiểu Quá hanh thông, đây là quẻ lợi tốt, nhưng chỉ thích nghi cho việc nhỏ, không thích nghi cho việc lớn, chim bay lên trời còn lưu tiếng hót lại, cảnh cáo con người, thời tiểu quá lên cao chắc chắn gặp nguy hiểm, xuống thấp thì gặp may mắn có lợi. Tóm lại, sau thời Trung Phu đến thời Tiểu Quá, Thánh nhân lấy tượng hào Tiểu Quá để răn người quân tử lúc nào cũng giữ được Đạo TRUNG, lúc giàu sang không tự kiêu, khi nghèo hèn không đổi chí, gặp bạo lực trấn áp cũng không khuất phục, lúc nào cũng giữ Đức Trung Tín, Tiểu Quá và Đại Quá là chỉ rõ hai khuynh hướng thái quá và bất cập, không đạt được chỉ tiêu Trung Dung.
Người quân tử nên tránh cái lối hàng hai, khi theo tả, lúc theo hữu làm mất Đạo Trung Dung.
Quẻ Tiểu Quá đối lập với quẻ Đại Quá, vì đạo lý trong thiên hạ có việc nên quá mà đúng thời, ví dụ như có lúc phải Đại Quá mới được việc, nhưng có lúc phải dùng Tiểu Quá mới hay, cho nên nói Tiểu Quá Hanh, Lợi, Cát.
Ở thời kỳ Âm thạnh hơn dương, nhu nhiều hơn cương, tiểu nhân đắc thế, quân tử thất thời, chỉ nên hạ thối, không nên thượng tiến, bất nghi thượng, nghi hạ đại cát, người thức thời thiệp thế, nên tiềm cư dưỡng khí dĩ đãi thời kỳ, ấy là Tiểu Quá hanh, Lợi, Trinh.
Khí tượng Tiểu Quá: nhỏ hơn, bất túc.
“Thượng hạ truân chuyển chi tượng” (Trên dưới gian nan vất vả, buồn thảm)
Từ đây, tôi viết khái quát khí tượng của 56 quái biến dịch, các quái này nằm trong luật tương đối, thuận nghịch hai chiều.
Tám quái bất dịch rất quan trọng nên tìm hiểu kỷ hơn, còn các quái sau chỉ biết ý tượng tổng quát.

QUẺ THỦY LÔI TRUÂN
Nghĩa: Khó khăn, vất vả.
Ý nghĩa của quẻ Truân: Khi có Càn Khôn (Trời Đất) rồi, thì Trời Đất mới sinh ra vạn vật, vậy lúc bắt đầu mới sinh ra, chưa lấy gì làm hanh thái lắm, nên mới gọi là quẻ truân.
Quẻ dưới Chấn là động, quẻ trên Khảm là hiểm, Khảm trên Chấn dưới gọi là Thủy Lôi Truân, thế là phát động ở giữa chốn nguy hiểm, đương giữa lúc hiểm mà hành động được là người tài đức phi thường.
Ý tượng của Quẻ: Truân nạn dã = gian lao, yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. TIỀN HUNG HẬU KIẾT CHI TƯỢNG.
“Trước dữ sau lành”.

SƠN THỦY MÔNG
 
Quẻ này đảo nghịch lại quẻ Thủy Lôi Truân.
Quẻ Chấn lật ngược lại thành quẻ Cấn (Sơn).
Quẻ Khảm lật lại cũng Khảm thuần quái Khảm (Thủy).
Cấn trên Khảm dưới, (núi trên, nước dưới) nên gọi là Sơn Thủy Mông.
Mông nghĩa là tối, chỗ mặt Trời lặn gọi là đại mông.
Ngu dốt tối tăm không biết gì, gọi là mông muội.
Mông khí = lớp không khí bao bọc ở ngoài địa cầu.
Mông là trẻ con, như huấn mông.
Mông học = việc giáo dục trẻ con.
Mông dưỡng = nhờ nuôi nấng dạy dỗ.
Chữ mông giảng trong phạm vi đạo thầy trò, thì thầy là người phải đắc Trung ở vào địa vị hào cửu NHỊ, phải có đủ đức đủ tài. Hào Lục Ngũ tượng học trò thì phải quên thế vị của mình mà khuất kỷ hạ cầu cửu nhị, hạ mình khiêm nhượng mà học hỏi. Công trình giáo dục phải dựa vào nền tảng của Mông là: Sơn thủy, Sơn là tượng lòng nhân ái, thủy là tượng trí thức, học thức (nhân giã nhạo sơn, trí giả nhạo thủy).
Khai tâm mở trí lúc ban sơ lấy đạo đức và trí thức của con em làm căn bản.
Ý tượng của quẻ Mông: Muội dã, bất minh, tối tăm, mờ ám, không minh bạch, che lấp, bao trùm, phủ chụp, ngu dại, ngờ nghệch.
“THIÊN VÕNG TỨ TRƯƠNG CHI TƯỢNG,
  Tượng lưới trời giăng bốn mặt”.


QUẺ THỦY THIÊN NHU
 
NHU có ba nghĩa:
1. Nhu là cần thiết, mà cần thiết cho loài người không gì bằng ăn uống (NHU giả ẩm thực chi đạo dã, NHU LÀ ĐẠO ĂN UỐNG.)
2. Nhu là chờ đợi (thời cơ).
3. Do dự, rù rờ. Nhu giả sự chi tặc, nghĩa là: do dự, rù rờ rất làm hại cho công việc.
Xem các hào trong quẻ tốt nhất là cửu ngũ, Dương cương Trung Chính lại ở ngôi Chí Tôn và Ngũ lại làm chủ cho quẻ Nhu. Tượng quẻ:
“Quân tử quan hội chi tượng”
Quân tử hội hợp vui vẻ, ăn uống chờ thời.



QUẺ THIÊN THỦY TỤNG
Tụng là kiện cáo bất hòa, tranh chấp.
Xem tượng quẻ trên Càn dưới Khảm, trời thì hướng thượng, nước thì hướng hạ, trên dưới không đi chung với nhau ấy là thiên dữ thủy vi hành nên sanh ra tụng. Vì là trái, cải nhau, vi hành là không đi cùng một đường nên tranh nhau.
Bốn quẻ TRUÂN, MÔNG, NHU, TỤNG, tượng quái đảo nghịch nhau gọi là phản nghịch.
Ý tượng quẻ tụng:  Đại tiểu bất hòa chi tượng (Lớn nhỏ không hòa nhau).

 QUẺ ĐỊA THỦY SƯ
Quẻ Sư có nghĩa là Quân đội, Quẻ này nêu lên qui luật dùng binh pháp.
Xét về tượng quẻ: Trong Khảm là nước, ngoài Khôn là Đất. Nước ngầm được dồn chứa trong đất, ý nói sức mạnh được tích lũy trong lòng dân, vô hình, vô ảnh trong thời bình, nghĩa là lòng yêu nước toàn dân đều có sẵn nhưng chưa bộc phát, nhưng sẵn sàng ứng phó khi cần đến. Động vi binh tịnh vi Dân, lấy Dân làm căn bản.
Quẻ Sư cũng có nghĩa là đông, quần chúng. Chúng tư = mọi người đều suy nghĩ một chủ đề.
Xem thể quẻ, ta thấy nước không ngoài đất, cũng như lính không ngoài dân, nên chăm lo nuôi dân thì có thể có được lính. “Thủy bất ngoại ư địa, binh bất ngoại ư dân, cố năng dưỡng dân, tắc khả dĩ đắc chúng hỷ”.
 
Ý tượng của Quẻ - Sĩ chúng ủng tòng chi tượng.
Ủng tòng là xúm theo nâng đỡ, bảo hộ.
Quân sĩ và quần chúng xúm nhau ủng hộ đánh bại quân xâm lược.



THỦY ĐỊA TỶ
Phần trên Khảm là Thủy.
Phần dưới Khôn là Đất. Quẻ Tỷ là đảo nghịch của Quẻ Sư theo về thể quẻ, Khảm trên Khôn dưới, tượng là nước ở trên đất, nước thấm vào đất, đất hấp lấy nước không gì thân phụ hơn, nên đặt tên quẻ bằng tỷ.
 Thân phụ () nghĩa là thân mật gần gũi giúp đỡ. Tỷ = là mối quan hệ liên lạc mật thiết qua lại hỗ trợ cho nhau, đây là quẻ tốt. TỶ KIẾT ().
Trong sáu hào chỉ có hào Cửu Ngũ là vị Chí Tôn trong năm hào. Đấy là người cầm đầu trong đám TỶ, người cầm đầu phải có đức Nguyên, Vĩnh, Trinh          thì mới làm được Đạo Tỷ.
Nguyên là bản chất tốt lành lớn, Vĩnh là lâu dài hữu thủy hữu chung, Trinh là chính đáng vững bền.
Ý tượng của quẻ - Tỷ là tư dã, chọn lọc, gạn lọc, thân liên, mật thiết, tư hữu riêng, trưởng đoàn trưởng toán chọn lựa.
Khử sàm nhiệm hiền chi tượng (Bỏ nịnh dùng trung).




PHONG THIÊN TIỂU SÚC

Chữ Súc có hai nghĩa:
1. Súc là nuôi nhau, tức là Súc tụ, súc dưỡng.
2. Súc chỉ: ngăn đón, ngừng lại mà ngừng lại thì có khả năng tích tụ. “Súc chỉ dã, chỉ tắc tụ dã”.
Cho nên súc chỉ có nghĩa là tích tụ thể quẻ nội Càn, ngoại Tốn. Thế là Càn cương Kiện mà trên Tốn thuận. Hào lục tứ ở địa vị quẻ trên (Tốn) là nhu đắc vị, còn lại trên dưới năm hào dương đều bị hào tứ súc chỉ, năm dương phải nghe theo.
Ở quẻ Tỷ thì một hào dương thống trị, năm hào âm phải phục tùng. Quẻ Tiểu Súc thì trái hẳn, một âm đắc vị mà năm dương phải nghe theo, có mâu thuẩn như vậy mới thành Dịch, vì thời đại biến hóa, nhân sự cũng do đó mà biến hóa theo.
Tượng quẻ là gió thổi trên trời, chưa có công dụng đối với vạn vật trên mặt đất, nên nói: Phong hành thiên thượng, tiểu súc.
Quân tử xử vào thời đại này, chỉ nên lo trau dồi đạo đức, vun đắp nền học vấn, phát triển tài văn chương.
Quân tử dĩ Ý văn Đức
Ý là tốt đẹp – tốt đẹp bằng văn chương đạo đức.
Ý tượng của quẻ Tiểu Súc: tắc dã, dị đồng, lúc bế tắc không đồng ý nhau, cô quả, súc oán (chứa mối oán hận) có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen.
Cầm sắt bất điệu chi tượng = Tiếng đờn không hòa điệu.


QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ
Quẻ trên là quẻ Càn (Trời)
Quẻ dưới là quẻ Đoài (ao hồ)
Quẻ này Càn trên Đoài dưới, Tượng dương cương ở phía trên, Âm nhu ở phía dưới, Trời ở trên, ao hồ ở dưới, phân vị thượng hạ rất phân minh, cương trên nhu dưới là lẽ âm dương rất tự nhiên, đúng với lẽ thường của Vũ trụ, lẽ thường đó là lễ, là trật tự của Trời Đất, nên đặt tên quẻ bằng Lý.
Nguyên văn lời kinh: LÝ HỔ VỸ, BẤT KHIẾT NHÂN, HANH.
                     
Nghĩa:
Đi theo sau đuôi con hổ, mà hổ chẳng cắn người, mọi sự hanh thông. Theo hình tượng quẻ Lý, Càn thượng quái tượng trưng cho năng lực sáng tạo mạnh mẽ. Đoài hạ quái tượng trưng cho vui vẻ hòa thuận. Lấy thể Đoài Âm nhu vui vẻ hòa thuận, ứng đối với Càn dương cương, dẫu gặp nguy hiểm cũng không bị hại mà được thành công. Ví như đi sau đuôi hổ mà không bị hổ cắn, ý nói mọi hành động phải được đề phòng, cẩn thận theo đúng luật Trời đất thì rất hanh thông.
Lý hổ vỹ, bất khiết nhân. Ý nói: người dân nghiêm chỉnh tuân hành luật pháp thì được hanh thông, hổ đây là chỉ cho sức mạnh của luật pháp, người dân sống và làm theo luật pháp, thì luật pháp không thể đàn áp được. Càn ở trên cao là Trời, Đoài ở dưới thấp là ao hồ nên mới nói thượng thiên, hạ trạch, trời cao, ao hồ thấp, đó là cái lý đương nhiên, cái trật tự trong xã hội. Con người phải biết đối xử với nhau cho phải lễ, nghĩa là phải biết thượng hạ, tôn ti trật tự. Thượng hạ tôn ti đây không phải chia ra nhiều giai cấp, khai thác hận thù, tranh dành quyền lợi. Vì phẩm cách đạo đức của con người mà chia ra làm ba phẩm để đối xử cho có lễ độ, trật tự, thượng hòa hạ mục, đồng thời dạy dỗ dìu dắt nhau trên đường tiến hóa.
1. Thượng phẩm là người có phẩm cách đạo đức hơn người, không cần giáo dục họ vẫn hành xử theo điều lành lẽ phải.
(Thượng phẩm chi nhân bất giáo vi thiện)
2. Bậc trung phẩm thì cần có học hỏi giáo hóa mới giác ngộ, làm lành lánh dữ (trung phẩm chi nhân giáo nhi hậu thiện).
3. Còn bậc hạ phẩm hạ lưu cần phải có luật pháp để răn dạy xử phạt họ mới tiến bộ (hạ phẩm chi nhân, giáo diệc bất thiện).
Càn cũng tượng là Cha, Đoài là con gái út, con gái út sống theo lý tưởng của cha thì vui đẹp, hanh thông, thành đạt trên mọi lĩnh vực.
Ý tượng của quẻ - Lý: Lễ dã, lộ hành, nghi lễ, có chừng mực, khuôn phép, dẫm lên, không cho đi sai, có ý ngăn chặn sự sai quấy.
Hệ thống pháp lý:
“Hổ lang đang đạo chi tượng,
  Tượng hổ lang đón đường”.




ĐỊA THIÊN THÁI
Quẻ này Khôn thuộc Âm ở trên, Càn thuộc Dương ở dưới, thượng hạ chuyển động giao hòa, thông suốt, bình yên, vạn vật sinh sôi nảy nở. Tháng Giêng ngày Tết người ta gọi: Tam dương khai bách thái, Càn khí dương đã tự mình giáng xuống dưới đất, khí Âm thăng lên trên, cái năng lực sáng tạo của Càn phối hợp với cái năng lực hấp thụ của Khôn giao phối hòa thuận với nhau, nên vạn vật được thái bình và hạnh phúc. Tượng của quẻ - Ba nét dương ở dưới, tức là thiên tại hạ. Ba nét âm ở trên tức là địa tại thượng (thiên địa đây là khí dương khí âm chớ không phải là Trời Đất).
Khí Âm thông lên, khí Dương thông xuống thế là Âm dương hòa hiệp, thiên địa tương giao.
Nói đến vạn vật cũng như con người được sanh ra là nhờ khí Thái Hòa.
Chúng ta học Dịch từ lúc có Càn Khôn tức là Trời Đất, trải qua trung gian nào:
1. Thời Truân lo việc kinh luân.
2. Thời Mông lo việc giáo dục.
3. Thời Nhu lo việc sinh tụ.
4. Thời Tụng
5. Thời Sư lo sắp đặt việc hình, việc binh.
6. Thời Súc, Thời Lý, lo chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ chế … hao tổn biết bao nhiêu tâm huyết, chứa trữ biết bao nhiêu thì giờ.
Kể về thời Khảm là hiểm, phải trải qua đến sáu lần gian nan, hiểm trở.
1. Thủy Lôi Truân – Khảm thượng (hiểm ở trên).
2. Sơn Thủy Mông – Khảm Hạ (hiểm ở dưới).
3. Thủy Thiên Nhu – Khảm Thượng ((hiểm ở trên).
4. Thiên Thủy Tụng – Khảm Hạ (hiểm ở dưới).
5. Địa Thủy Sư – Khảm Hạ (hiểm ở dưới).
6. Thủy Địa Tỷ – Khảm Thượng (hiểm ở trên).
Đã thoát khỏi 6 lần nguy hiểm mới đến thời Tiểu Súc = lo nuôi dưỡng, tích lũy phần bên trong còn bên ngoài có trật tự phân minh là Thiên Trạch Lý.
Thái vận đến cùng tắc biến, tức khắc vận bỉ theo sau.
Ngao ngán thay! Việc ở trên đời, khi xây dựng thành công tốn biết bao nhiêu công phu tâm huyết, mà làm cho suy vi hư hỏng chỉ trong chốc lát.
Đạo thái bỉ nói lên sự thành công rất khó, sự phá hoại cho bại hư rất dễ.
Phúc đến rất chậm, mà họa thì đến rất nhanh. Học Dịch phải nghiên tinh, đàn tứ    , những điều vi diệu của Vũ trụ luân chuyển mà tự giác.
Nghiên tinh đàn tứ nghĩa là: nghiên cứu đến chỗ tinh vi hết ý (đàn = hết).
Ý tượng của Quẻ Địa Thiên Thái: thông dã, điều hòa, thông hiểu, am tường, hiểu biết, thông suốt, quen biết.
Thiên Địa hòa xướng chi tượng.
(Tượng Trời Đất giao hòa).

 QUẺ THIÊN ĐỊA BỈ
Tượng quẻ Trời trên Đất dưới, Thiên Địa bất giao gọi là Bỉ. Nguyên văn lời Kinh: Bỉ chi phỉ nhân, bất lợi, quân tử trinh, đại vãng, tiểu lai.
1. Nghĩa là thời kỳ bế tắc nhân đạo không thông, hoàn toàn bất lợi, người quân tử nên kiên trì trinh chính, vì đây là thời kỳ khí dương vĩ đại đã đi ra ngoài. Khí âm nhỏ bé đã đi vào trong làm chủ.
Thời kỳ Bỉ bất lợi, người quân tử ôm lấy Đạo Trung Chính, không a dua cấu hợp với thời thế suy đồi.
Thiên hạ bất đắc kỳ lợi, quân tử độc năng thủ chính, bất cấu hiệp ư Bỉ Đạo.
Nguyên văn tượng viết: Thiên Địa bất giao, “Bỉ” quân tử dĩ kiệm đức, tỵ nạn, bất khả vinh dĩ lộc.
Giải nghĩa: Trời Đất không tương giao, đó là hình tượng quẻ “Bỉ” Quân tử xem đó mà lấy tiết kiệm làm đức tính tốt, thì tránh được tai nạn, không thể theo đuổi vinh hoa mưu cầu lợi lộc được, ở trên văn ngôn quẻ Không có câu: THIÊN ĐỊA BẾ, HIỀN NHÂN ẨN.
Chỉ một chữ Ẩn đủ thích tượng quẻ Bỉ.
Bỉ = Bế tắc, gián cách.
Ý tượng của quẻ: Tắc dã, gián cách, bế tắc không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng.
Thượng Hạ tiếm loạn chi tượng (trên dưới lôi thôi cướp quyền đoạt vị).

 THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
Theo về tượng quẻ, Thiên là tượng Trời ở trên, Ly Hỏa là tượng lửa ở dưới. Lửa có tánh bốc lên Trời, đó là trạng thái “Đồng Nhân”.
Xem về thể quẻ, hào ngũ làm chủ cho Đạo Càn.
Hào nhị làm chủ cho Đạo Ly. Hào nhị của quẻ Ly tượng Âm nhu ở vào Âm vị được đắc chính, lại là hào ở giữa quẻ Ly là đắc Trung. Hào cửu ngũ của quẻ Càn cũng đắc Trung. Thượng hạ Trung và Chính ứng hợp với nhau mới thành “Đồng Nhân”.
Theo tính chất của quẻ Ly có đức văn minh, Càn có đức cương kiện, Nhị và Ngũ có Đức Trung Chính ứng với nhau. Nội quái là văn minh chứa trữ ở trong, ngoại quá là cương kiện tác dụng ở phía ngoài, lại vừa Trung và Chính ứng hợp nhau, đó là Chính Đạo của người quân tử.
Đồng Nhân có nghĩa là có sự giao cảm hòa hợp, đồng tâm hiệp lực tiến đến một xã hội tự do, dân chủ, công bằng. Người xưa mơ ước xây dựng xã hội bình đẳng đại đồng hạnh phúc.

Đạo Đồng Nhân làm thành là việc rất khó, vì nhân dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân
Nghĩa là người nhóm theo từ loại, vật chia theo từ bầy, tất cả vạn vật đều dị biệt mà làm cho Đại Đồng thì rất khó, thiết tưởng chẳng bao giờ thực hiện được.
Duy có Đạo Trung Chính, người quân tử đạt đạo, thông hết vật tình, thấu hết vậy lý, biết rõ nguyên tắc hòa hợp, chẳng thiên vị, khiến cho mọi vật các đắc kỳ nghi , mọi giống các đắc kỳ bình. 
 
Tóm góp bao nhiêu cái dị biệt qui kết lại thành một quan niệm Đại Đồng, Đại Đồng có nghĩa là từ tiểu dị đi đến Đại Đồng, ai ai cũng phải lo bản thân rồi mới đến xã hội, không phải Đại Động, sống tập thể, ai cũng như ai, ăn, mặc, ở, đi lại đều bình đẳng, đó chỉ là giấc mơ huyền ảo.
Quan niệm Đại Đồng là quan niệm sống bằng Thần, Khí, bằng ánh sáng và không khí, bằng tình thương yêu và lẽ hằng sống. Nếu lấy vật chất làm lẽ sống thì không bao giờ có xã hội Đại Đồng. Mạnh Tử đã nói: Vật bất tề, vật chi tình dã.
Nghĩa là cái tình lý sự thể của vạn vật là không bằng nhau. Chủ thuyết Đại Đồng chỉ là một khái niệm trừu tượng mà thôi.
Ý tượng của Quẻ - thân dã, thân thiện, trên dưới một lòng, cùng người ưa thích. Đồng tâm hiệp lực chi tượng. (Cùng người đồng lòng chung sức).

HỎA THIÊN ĐẠI HỮU

Quẻ Trên (thượng quái) là quẻ Ly (lửa) hỏa.
Quẻ Dưới (hạ quái) là quẻ Càn (Trời) Thiên, nên đặt tên Quẻ là Hỏa Thiên Đại Hữu.
Đại Hữu là sở hữu rất lớn, ý nói ánh sáng và sức nóng mặt Trời bao trùm tất cả.
Soán từ: ĐẠI HỮU, NGUYÊN, HANH
Quẻ Càn có đức cương kiện (cứng mạnh) quẻ Ly có đức văn minh, Đức cương kiện quẻ Càn hàm súc bên trong (nội quái) chất văn minh quẻ Ly (ngoại quái) phát triển ở bên ngoài, cương kiện với văn minh gồm cả hai đức ấy, thuận theo thời Trời mà soi chiếu đến muôn vật, thì thật là tốt đẹp vô cùng, xem xét sáu hào trong quẻ, hào ngũ là hào Âm nhu ở vào địa vị ngôi Chí Tôn, Hào Ngũ là vị Trung có Đức Trung ở vào thời Đại Hữu, đức Trung ấy lớn lắm, nên năm hào dương thảy đều phục tùng, thuận ứng với Ngũ. Một Âm thống trị được năm dương, đó là nghĩa đặc biệt trong Kinh Dịch, ý nói địa vị Hào Ngũ thuộc Âm có đức Khiêm tốn, ở địa vị cao mà khiêm tốn thì tất cả đều qui phục theo về.
Ý tượng của quẻ: Khoan dã, cả có, thong dong, độ lượng nhiều, có đức dày, chiếu sáng lớn.
Kim ngọc mãn đường chi tượng (vàng bạc đầy nhà).


 QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM

Khôn Thượng
Cấn hạ
Khôn tượng Địa (Đất)
Cấn tượng Sơn (Núi)
Đặt tên quẻ: ĐỊA SƠN KHIÊM
Nguyên văn lời Kinh: KHIÊM HANH, QUÂN TỬ HỮU CHUNG.
Khiêm là Khiêm nhượng, nhún nhường, nhường nhịn, hạ mình.
Chữ Khiêm tượng trưng cho sự Khiêm cung từ nhượng, người quân tử lấy đức Khiêm tốn mà cư xử với mọi người thì mọi sự đều được hanh thông, và cố giữ đức Khiêm tốn đến trọn đời.
Thầy TĂNG SÂM có câu: Hữu, nhược vô, thực, nhược hư, dĩ đa, vấn ư quả, dĩ năng, vấn ư bất năng.
Nghĩa là mình có mà xem như không có, mình đầy đủ mà xem như thiếu kém; mình có tri thức nhiều, mà chịu hỏi người ít học, mình có tài năng mà chịu hỏi người bất năng.
Kinh thư khen Vua Vũ câu: Nhữ duy bất căn, thiên hạ mạc dữ nhữ tranh năng, nhữ duy bất phạt, thiên hạ mạc dữ nhữ tranh công.
Nghĩa là: Anh chẳng khoe khoan tài giỏi, nên thiên hạ chẳng ai tranh tài với anh. Duy anh chẳng khoe công lao, nên thiên hạ chẳng ai tranh công với anh.
Góp cả hai câu sách trên để giải thích nghĩa chữ Khiêm, Hanh, thì vừa đúng lắm. Hễ hay khiêm tốn tất được hanh thông. Đạo đức tốt, học thức rộng, mà có đức Khiêm như Thầy Nhan Hồi; công nghiệp vĩ đại mà có đức Khiêm như Vua Vũ, xứng đáng là bậc quân tử hữu chung.
Ý tượng của quẻ Khiêm: thoái dã, thoái ẩn, khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giả, lui vào trong, bế cửa.
Thượng hạ mông lung chi tượng (Tượng trên dưới hoang mang).


QUẺ LÔI ĐỊA DỰ

Chấn Thượng
Khôn Hạ
Chấn Tượng Lôi (Sấm)
Khôn Tượng Địa (Đất)
Đặt tên quẻ: Lôi Địa Dự
Quẻ này Chấn trên, Khôn dưới, Chấn có tính động, Khôn có tính thuận, hành động mà hòa thuận thì có gì vui hơn nên Dự có nghĩa là hòa thuận vui vẻ.
Nguyên văn lời kinh: DỰ, LỢI, KIẾN HẦU, HÀNH SƯ.
Nghĩa là: Vui vẻ, hòa thuận nên phong hầu kiến quốc, hay xuất binh chinh chiến thì rất có lợi.
Tượng của quẻ này có năm Âm, Nhứt Dương. Cửu Tứ là dương cương ở gần Lục Ngũ là vị Chí Tôn, trên dưới năm Âm đều thuận ưng với tứ, tượng là một người tài đức xuất chúng, lại gặp thời đắc chí ư chi dự, dụng làm việc gì cũng thuận thích cả, nhứt là việc kiến hầu, hành sư cũng thuận lợi lắm.
Kiến hầu nghĩa là phong đặt tước hầu để quản trị nhân dân trong một nước.
Hành sư = đem quân đi đánh giặc.
Ý tượng của quẻ: Duyệt dã, vui vẻ, thuận động, dự bị, dự phòng, canh chừng.
Thượng hạ duyệt dịch chi tượng.
“Tượng trên dưới vui vẻ”.

    QUẺ TRẠCH LÔI TÙY

Đoài Thượng
Chấn Hạ
Đoài Tượng Trạch (ao hồ)
Chấn Tượng Lôi (sấm)
Đặt tên quẻ TRẠCH LÔI TÙY
Quẻ này Đoài trên, Chấn dưới, Đoài là vui vẻ, Chấn là hành động, hành động mà vui vẻ tất nhiên nhiều người vui mà đi theo.
- Lại nữa Chấn là Trưởng nam, Đoài là thiếu nữ, thiếu nữ là em út vui lòng theo anh cả là Chấn thì rất đẹp lòng.
- Lại một tượng nữa Chấn là Lôi, Đoài là Trạch, Sấm động trong ao hồ, nước trong ao đều động theo cũng là TÙY, góp ý nghĩa hai tượng như thế nên đặt tên quẻ bằng TÙY.
Nguyên văn lời Kinh – NGUYÊN, HANH, LỢI, TRINH, VÔ CỰU.
Tùy nghĩa là theo, Quẻ Càn tượng Trời có bốn đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, Quẻ Tùy cũng có bốn đức như Trời. Ý Thánh nhân muốn nói: Đạo Tùy là Đạo lớn của người. Làm người phải theo Đạo Trời mới hợp cơ tấn hóa. Con người cùng Trời Đất có đồng một thể, Thiên, Địa, Nhân đồng nhất thể, Trời có gì thì người có nấy, nên con người phải tùng theo định luật của Trời Đất, của Âm Dương, Ngũ hành mà hòa hiệp trong một bản thể, đấy là con đường “THIÊN NHÂN HIỆP NHẤT”.
Theo cụ Phan Bội Châu giải: Tạo nhân TÙY có tốt có xấu, thì kết quả TÙY có lành có dữ, nên quái từ răn chúng ta rằng: Người trong thiên hạ không ai tránh khỏi chữ TÙY. Sự nghiệp lớn như vua Thuấn cũng phải bỏ ý kiến mình, theo ý kiến người, Xá dĩ Tùng chi ()
Đạo đức thịnh như Đức Khổng Tử cũng phải chọn điều lành mà theo: Trạch thiện nhi tùng ().
Nghĩa chữ TÙY lớn đến như thế, cho nên cốt yếu phải tùy cho đắc kỳ Đạo, nếu TÙY chẳng phải Đạo, đem sở học, tài trí của mình mà a dua theo tội ác, theo đời bất chính thì chỉ là một bọn: Quỷ TÙY vô lương 
(), (Quỷ là giả dối quỷ quyệt), vì Đạo Tùy mà táng thân thất tiết đến như thế, thì thật là nguy hiểm.
Đạo Tùy trong thiên hạ rất lớn, lớn đến cả Vũ trụ, địa cầu, các hành tinh phải luân chuyển theo mặt Trời, nhỏ đến như con ong phải theo con chúa, con kiến phải theo con đầu bầy cho đến thân con người: Ngũ quan tứ chi đều phải tùng theo tâm não. Tâm não sai khiến đến đâu thì thể phách tư tưởng làm theo đến đây. Nhưng chân lý của Tùy chẳng phải là nô lệ, chỉ vì công lý mà Tùy, chứ chẳng phải vì thế lực mà Tùy, vì đại cuộc mà Tùy, chớ chẳng phải vì tiểu kỷ mà Tùy, vì công ích mà Tùy, chớ chẳng phải vì tư lợi mà Tùy.
Trước khi chưa Tùy phải kén chọn cho Tinh, sau khi đã Tùy phải giữ vững khí tiết cho chính bền, vậy nên quái từ nói: đã Nguyên, Hanh tất phải Lợi Trinh. Nếu Đạo Tùy mà bất trinh, Tuy Nguyên Hanh mặc dầu, mà cuối cùng cũng chắc có tội lỗi.
Chúng ta học kỷ quái từ này, dù theo một chủ nghĩa nào, một phe đảng nào, một giáo đạo nào, cũng gọi bằng Tùy, mà Tùy tất phải chính Trinh mới đúng đạo lý.
Ý tượng của Quẻ: Thuận dã, di động, cùng theo, mặc lòng không có chí hướng, chỉ chùi theo.
Đại thể chủ việc di động, thuyên chuyển như chiếc xe.
Phản phúc bất định chi tượng. (tượng loại không ở).


 SƠN PHONG CỔ

Cấn vi Sơn (Núi)
Tốn vi Phong (Gió).
Sơn thượng, Tốn hạ nên đặt tên Quẻ là: SƠN PHONG CỔ.
- Theo tượng quẻ gió ở dưới núi, gió bị núi chặn lại, nên gió bèn quay vấn lại, thì cây cối ở trong núi bị rối loạn.
- Cấn là trai, Tốn là gái, gái ở dưới, trai ở trên, gái vì thích trai mà mê hoặc. Xét tượng quái là: Cổ loạn. Thời loạn không thể ngồi yên tất phải làm việc. Cổ có hai nghĩa:
1. Hoại loạn (hư loạn và rối loạn).
2. Có công việc.
Vì rối loạn hư hoại, nên phải chấn chỉnh sửa sang, đã sửa sang tất phải có nhiều công việc, nên nói tắt rằng: cổ giả sự dã.
- Vật bỏ lâu ngày không dùng, sâu mọt sinh nên gọi bằng “trùng cổ”.
- Người say đắm tửu sắc tật bệnh sinh, nên gọi bằng “bệnh cổ”.
- Đất nước trị an lâu ngày mà tệ hại sanh gọi bằng “Cổ hoại”.
Nguyên văn lời Kinh – Cổ: Nguyên, Hanh, Lợi THIỆP ĐẠI XUYÊN, TIÊN GIÁP TAM NHỰT, HẬU GIÁP TAM NHỰT.
Theo mặt chữ Cổ, chữ mảnh  ở dưới, ba chữ trùng, ở trên, mảnh là đồ vật, khí mảnh. Một vật gì mà chứa trữ đến ba loại sâu là bị hư hoại đến cực điểm, loạn cực tất phải trị, hư hoại phải tu bổ là lẽ tự nhiên.
Vì vậy mà quái từ chẳng thủ nghĩa bằng chữ Cổ mà thủ nghĩa bằng chữ “Tài trì Cổ”. Việc nước đã bị loạn lạc hư hoại rồi mà chấn chỉnh sửa sang mọi công việc lại cho được trị an, ấy là TÀI TRÌ CỔ. Vì đã tái tạo lại xã hội hoàn thiện nên được hanh thông. Nhưng sửa sang lại một xã hội băng hoại, đầy rẫy gai chông chướng ngại, phải có TÂM sáng suốt, có tài Trì Cổ, xông vào chỗ nguy hiểm, chẳng ngại gian nan, quyết kiên tâm trì chí mới trị xong hoại loạn, nên nói rằng: LỢI THIỆP ĐẠI XUYÊN ().
Tuy nhiên công việc Trì Cổ phải có chương trình, kế hoạch, tính toán cho thật sâu xa, muốn được vậy phải thông luật ngũ hành SANH, KHẮC, CHẾ mà Trì Cổ, cho nên Kinh nói: Tiên giáp tam nhật, Hậu giáp tam nhật. Ví dụ: Xét trong ngũ hành, hành Thủy vượng quá, thì sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ chế Thủy mới được quân bình (3 lần).
Nói tóm lại Tiên giáp là truy cứu lại cơ sở dĩ nhiên mà sắp đặt lại một cách quân bình đúng đắn.
Hậu giáp là tính đến hậu vận tương lai để cho mọi việc Trì Cổ được hanh thông, nên Kinh nói rằng: Tiên Giáp Tam Nhựt, Hậu Giáp Tam Nhựt





Phụ chú: Cổ là một thời đại rất xấu, mà cớ sao quái từ được hai chữ Nguyên Hanh ().
Xưa nay, thiên hạ không lo vì thời đại loạn, chỉ lo vì không người bát loạn (), bát loạn nghĩa là dẹp loạn. Nhân sanh không lo vì cảnh ngộ hiểm mà chỉ lo không tài tế hiểm. Nếu những người trì cổ có gan lớn, mà kiêm cả tiểu tâm, tài cao mà kiêm cả viễn lự, thì thời loạn chính là đường mở ra trị, cảnh hiểm chính là lối đưa đến bình. Quái từ đã nói rằng: Lợi thiệp đại xuyên, lại răn cho tiên giáp hậu giáp, đạo dạy người ta trì Cổ thật chẳng sót một tý gì. Trì Cổ nghĩa là nắm giữ việc sửa trị hoại loạn, chấm dứt việc loạn lạc. Người quân tử muốn trị loạn trước tiên phải “Chấn Dân, dục Đức”
Chấn dân = Cổ vũ khí dân, thức tỉnh trí dân bằng sự giáo dục.
Dục đức = Nuôi dưỡng đạo đức cho Dân bằng đức tin Đạo, Tôn giáo. Đây là phương pháp Trì Cổ trước nhất.
Ý tượng của Quẻ - Cổ = Công việc, sự biến.
Âm hại tương liên chi tượng (Đề phòng sự ngầm hại)


QUẺ ĐỊA TRẠCH LÂM
 Khôn Thượng là Ngoại Khôn.
Đoài Hạ cũng là Nội Đoài.
Khôn Tượng Địa (Đất)
Đoài Tượng Trạch (ao hồ)
Đặt tên quẻ Địa Trạch Lâm.
Lâm là tới, đến, trên cao ngó xuống, trên soi xuống.
Chữ Lâm có nhiều nghĩa, ở đây giải chữ Lâm = Trở nên vĩ đại, một nghĩa nữa là sự tiếp cận.
Quẻ Khôn có sáu hào Âm, theo thể quẻ, đem hai hào dương thay vào hào sơ, hào nhị, thế là dương cương tiệm trưởng, sắp đến thời thịnh lớn, nên đặt tên quẻ bằng Lâm. Trên quẻ Khôn tượng Đất, dưới quẻ Đoài là Trạch thuộc nước (ao hồ). Bờ ao tiếp cận với nước nên cũng đặt quẻ là Lâm. Vua tiếp cận với dân, Vua Lâm triều, kẻ trên tiếp cận với người dưới gọi là Lâm.
Nguyên văn lời kinh: Lâm, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, Chí Vu Bát NGUYỆT HỮU HUNG.
Đối với mười hai tháng trong một năm, thì quẻ Lâm là quẻ tháng 12 (chạp). Quẻ Địa Lôi Phục (tháng 11) nhứt dương sơ động, Quẻ Khôn đã được một hào Dương thay thế. Đến tháng 12 có hai hào dương đã trưởng lần, áp bức bốn hào Âm, từ đó dương đã trưởng, âm phải tiêu, thời đại đã đến hồi thông thái. Theo về tài quẻ, cửu nhị cương trung, ứng với Lục Ngũ Nhu Trung, thời đại rất tốt, quân thần đông đúc, xoay đổi cuộc đời, nhân dân bắt đầu vui vẻ, Thánh nhân mừng cho xã hội đến thời Lâm chắc được hanh thông lớn lắm.
Tuy nhiên việc trong thiên hạ, hễ có trị rồi thì ắt có loạn, có thạnh rồi phải có suy, đạo quân tử tuy trưởng mà chắc gì đạo tiểu nhân tiêu hết đâu? Cho nên người xử vào thời Lâm chớ nên tự đắc kiêu sa, phóng tứ, phải lo vun đắp chính đạo cho thiệt vững bền, tức là Lợi Trinh ().
Nếu chẳng thế thì họa loạn chẳng bao lâu sẽ đến ngay, ước chừng tám tháng nữa tất có điều hung họa.
Chí vu bát ngoạt hữu hung
Tám tháng là tính từ tháng 11, quẻ Phục được một hào dương, tháng 12 quẻ Lâm được hai hào dương, tháng Giêng quẻ Thái được ba hào dương, tháng hai quẻ Đại Tráng được bốn hào dương, quẻ Quyết tháng Ba được năm hào dương, đến quẻ Bát Thuần Càn được sáu hào dương, mới được sáu tháng mà dương đã lên tột đỉnh rồi. Bổng chốc nhất Âm sinh, làm thành quẻ Cấu tháng năm. Rồi nhị âm sinh làm Quẻ Độn, tháng sáu. Kể từ tháng 11 nhứt dương sinh đến tháng sáu là tám tháng Quẻ Độn là tượng hai Âm ức chế bốn dương, thế là dương đã rõ ràng thế tiêu, Âm đã rõ ràng thể trưởng, nên gọi là hữu hung.
- Lại có một nghĩa nữa, bát ngoạt là tháng tám, kể từ nhứt âm sinh là quẻ Cấu tháng năm, đến nhị Âm sinh là quẻ Độn tháng sáu, tam âm địch với tam dương là quẻ Bỉ tháng bảy. Âm trưởng đến bốn bào, dương chỉ còn có hai hào, Âm có thể đánh đổ dương là Quẻ Quán là quẻ tháng tám, dương tiêu đến đó, âm trưởng đến đó, thì thế đạo còn gì tốt nữa đâu? Nên nói đến tháng tám thì hữu hung, ý nghĩa này cũng thông.
Dưới đây là mười hai quẻ trong một năm do CÀN KHÔN giao biến.

   HÌNH I
6- Bát Thuần Càn tháng tư có đủ 6 hào dương.
5- Trạch Thiên Quyết tháng ba có 5 hào dương.
4 - Lôi Thiên Đại Tráng tháng hai có 4 hào dương.
3- Địa Thiên Thái tháng giêng có ba hào dương.
2- Địa Trạch Lâm tháng 12 có hai hào dương.
1- Địa Lôi Phục tháng 11 có 1 hào dương.

 HÌNH II
 
6- Bát Thuần Khôn tháng 10 có đủ 6 hào âm.
5- Sơn Địa Bác tháng chín có 5 hào âm.
4- Phong Địa Quán tháng tám có 4 hào âm.
3- Thiên Địa Bỉ tháng bảy có 3 hào âm.
2- Thiên Sơn Độn tháng sáu có 2 hào âm.
1- Thiên Phong Cấu tháng 5 có 1 hào âm.
Hình I: CÀN là thời âm tiêu dương trưởng từ tháng 11 đến tháng tư.
Hình II: Khôn là thời dương tiêu âm trưởng, từ tháng năm đến tháng 10 và cứ như thế mà xoay chuyển không ngừng. Pháp tu gọi là Tấn Dương Hỏa, thối âm phù là như thế.
Mười hai tháng cũng áp dụng 12 giờ mỗi ngày.
Xem lý giao dịch của âm dương và biến dịch của Quái hào ta thấy trong Trời Đất thời kỳ họa phúc thạnh suy thật là ghê gớm, vừa thấy lúc Dương trưởng lại nghĩ đến lúc Âm tiêu. Chính giữa lúc Âm tiêu mà nghĩ đến lúc Dương trưởng.
Học Dịch để thấy sự biến hóa của Âm Dương, Ngũ hành, bốn mùa, tám tiết, 24 khí, trong một năm 12 tháng biến dịch luân chuyển không ngừng. Trong ôn ta thấy có nhiệt, trong lương ta thấy có hàn, trong thời thịnh đạt có chứa mầm suy vi, trong thời sanh trưởng có chứa mầm hủy diệt, đó là lẽ đương nhiên của Tạo hóa.
Đã là duy vật thì phải chịu trong luật thành, trụ, suy, hủy, chỉ có Thần Khí mới là trường tồn vĩnh cửu.
Ý tượng của quẻ Địa Trạch Lâm: Đại dã, bao quản, việc lớn người lớn, cha nuôi, vú nuôi, giáo học, nhà sư, kẻ cả, dạy dân, nhà thầu. Quân tử dĩ giáo tứ chi tượng.
(Người quân tử dạy dân, che chở, bảo bọc dân vô bờ bến).

QUẺ PHONG ĐỊA QUÁN

Tốn Thượng là Ngoại Tốn.
Khôn hạ cũng là Nội Khôn.
Tốn tượng Phong (gió).
Khôn tượng Địa (đất).
Đặt tên Quẻ là Phong Địa Quán.
Chữ Quán có hai Âm – Âm ở quẻ thì đọc bằng quán. Âm ở sáu hào thì đọc bằng quan.
Quán là biểu tỏ ý thức cho người thấy.
Quan là xem xét dòm ngó.
Nguyên văn lời Kinh: ĐẠI QUÁN TẠI THƯỢNG, THUẬN NHI TỐN, TRUNG CHÍNH DĨ QUÁN THIÊN HẠ.
Theo thể quẻ, Hào cửu ngũ ở quẻ thượng tốn, có đức dương cương, Trung Chính để thiên hạ trong ngóng vào.
Lại theo thể quẻ Hạ Khôn, Khôn có tính thuận, thượng Tốn có tính nhu hòa,   (Thuận nhi tốn) cửu ngũ vừa trung chính vừa thuận hòa, kiêm cả hai đức ấy mà biểu thị cho thiên hạ, Trung Chính dĩ quán thiên hạ, nghĩa tên quẻ Quán.



Đứng vị Chí Tôn, làm một người nguyên thủ, lấy thân mình, tư tưởng và hành động làm gương mẫu cho thiên hạ, cảm thiên hạ bằng tài đức, chẳng cần trau dồi bên ngoài bằng hình thức, tượng như một người chủ tế lễ, chỉ cần tinh thần trai khiết như lúc mới bắt đầu tế mới Quán thủ  ), quán thủ là rửa tay, chỉ ngần ấy đủ tỏ với thần minh lòng thành kính của mình, không cần phải rượu cơm bàn soạn, nhi bất tiến, nghĩa là dâng cúng đồ vật.
Chữ Quán tẩy = chủ tế rửa tay.
Tiến là bày mâm cổ dâng lên như tiến tửu, tiến soạn … Người chủ tế chỉ quán thủ, phần hương là được, không cần phải tiến dâng đồ vật, ý nói người chủ tế phải tịnh tâm, để lòng trong sạch dâng lên lòng chí thành cầu nguyện, không cần dâng cúng đồ vật chất. Người làm bề trên được như thế, ấy là có đức minh thành cảm được Thần Thánh và mọi người chung quanh mình, tức nhiên mọi người ai cũng ngưỡng mộ. Tức là: HỮU PHU, NGUNG NHƯỢC.
Ngung = tín ngưỡng, nghiêm chỉnh, tả cái dáng mặt nghiêm nghị, chính đính.
Trên đây là lý giải câu kinh: Quán, quán nhi bất tiến, hữu phu, ngung nhược.
 Chữ Quán đây là biểu tỏ cho người thấy việc tin thờ thần linh cốt lấy tín thành mà thờ THẦN, mà vật chất chỉ trang sức phụ mà thôi. Thánh nhân bày ra hữu hình chỉ là để bày tỏ lý vô vi, không thể lấy hình tướng vật chất làm mục cứu cánh được.
Kinh Phật có câu: Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất đắc kiến Như Lai.
Nghĩa là: Phật lý chỉ ở bản tâm, vô thanh vô sắc, nếu ai lấy thanh âm mà cầu ta ở thanh âm, lấy hình sắc mà cầu ta ở hình sắc, người ấy rặt là làm tà đạo, không được thấy đức Phật Như Lai. Câu Kinh này có ý tứ cũng như lời kinh trên, lấy mâm cổ mà cầu thần có khác gì lấy thanh sắc mà cầu Phật.
Thánh nhân biết cái đạo thần diệu ra giáo hóa, chẳng những thân giáo, ngôn giáo, mà còn chỉ rõ tâm lý Thánh nhân, khiến cho mọi người cảm cách về tinh thần, tư tưởng, ấy là thần đạo thiết giáo.
Thánh nhân dĩ thần Đạo thiết giáo nhi thiên hạ phục hỹ.
Chữ quan còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng mà kinh Cao Đài gọi là Lưỡng Quan. Ấy là Nội ngoại đồng quan. Có nghĩa là quan sát, thấy biết bên ngoài lẫn cả bên trong, thấy biết phần vật lý cũng như tâm lý.
Thánh Ngôn Cao Đài Thầy dạy: Chưa phải hồi các con biết. Tại sao vẽ Thiên Nhãn mà thờ Thầy, nay Thầy cho biết chút đỉnh:
Nhãn thị chủ tâm
Lưỡng quan chủ tể
Quan thị Thần
Thần thị Thiên
Thiên giả ngã dã
  Theo sách giáo lý của Tòa Thánh Tây Ninh, cụ tiếp pháp Trương Văn Tràng giải:
Con mắt là chủ cái Tâm,
Hai luồng ánh sáng là chủ tể.
Ánh sáng là Thần
Thần ấy là Trời
Trời là ta vậy.
(Theo tôi giải: Lưỡng quan không g).
Con Mắt (Thần) là chủ cái Tâm và cũng làm chủ tể của lưỡng quan. Lưỡng quan là thấy biết bên ngoài lẫn bên trong. Cái thấy biết ấy là Thần. Thần ấy là Trời. Trời là ta vậy.
Tạm viết ra thành thơ cho dễ nhớ.
                               Con Mắt là chủ cái lòng.
                        Lại là ông chủ biết trong, thấy ngoài.
                               Thấy biết với THẦN không hai,
                        THẦN là Trời đó, có ngoài người đâu?
                               Xét xem mọi lẽ cao sâu.
                        Trời ta hiệp nhứt nhiệm mầu công phu.
Chữ Thần chỉ cho Trời, mà Đạo Trời rất thần diệu, không nghe gì, không thấy làm gì, mà tự nhiên tứ thời vận hành, không bao giờ sai suyển.
 Quan Thiên chi THUẦN ĐẠO, nhi tứ thời bất thắc.
(Thắc là biến đổi, sai lầm)
Ý tượng của Quẻ Quan – Quan dã, quan sát, xem xét, trông coi, cảnh tượng xem thấy, thanh tra, lướt qua, xem qua, sơn phết, quét nhà.
Vân bình tụ tán chi tượng (Tượng bèo mây tan hợp).


QUẺ HỎA LÔI PHỆ HẠP

Quẻ trên là Quẻ Ly tượng Hỏa (lửa).
Quẻ dưới là Quẻ Cấn tượng Lôi (sấm).
Đặt tên quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp.
Nguyên văn lời kinh: PHỆ HẠP, HANH, LỢI, DỤNG NGỤC.
Tượng quẻ như một cái miệng đương há lớn, ở giữa (là hào bốn) có một vật trở ngại, nằm giữa hai hàm răng, khiến cho hai môi không khép lại được; để khép lại cần phải cắn mạnh cho đứt ngang trở ngại đó. PHỆ là cắn mạnh, Hạp nghĩa là Hiệp, cắn mạnh để miệng ngậm lại được.
Văn Kinh có ý nói việc trị thiên hạ phải trừ khử những trở ngại đó. Trở ngại làm giáng cách trên dưới không hiệp được là do bọn gian thần, sàm nịnh, nó thường lọt vào khoảng giữa; Người trên thì bị nó bưng bít, người dưới thì bị nó lừa đảo, che lấp, cho nên thượng hạ không thông, trên dưới bất hợp mà họa loạn mới xảy ra. Cho nên, Thánh nhân dạy phải dùng hình phạt để trừ khử bọn đó. Nên gọi là PHỆ HẠP.
PHỆ nghĩa là cắn mạnh những vật làm trở ngại để miệng ngậm lại được.
    Hạp nghĩa là hợp, Hạp giả Hiệp dã
Quẻ này kết hợp được hai quẻ: Quẻ Ly là lửa sáng, quẻ Chấn là sấm sét, nó tượng trưng cho sự khắc phục các trở ngại trong thiên nhiên. Ví dụ: Cơn bão mang theo sấm sét và mưa lũ đã quét sạch những trở ngại dơ bẩn trong tự nhiên. Người nắm quyền cai trị phải sử dụng đến pháp luật và trừng phạt để dẹp tan những kẻ gian thần, sàm nịnh, bọn sâu dân mọt nước, bọn tham nhũng cửa quyền, đục khoét của dân, gây rối loạn, làm mất ổn định trong cuộc sống xã hội. Mục đích chính của quẻ này là tranh tụng về tội hình sự, hình phạt là dụng cụ của Thánh nhân để trị bọn gian tà sàm nịnh. Muốn trị bọn gian thần không phải dễ, phải có uy vũ như sấm sét (Lôi), phải có sáng suốt quan minh chánh đại như Mặt Trời (Ly). Có uy, có minh thì làm việc tư pháp mới đúng, xử hình phạt mới nghiêm minh.
Kinh Dịch có câu: PHỆ HẠP giả, trị thiên hạ chi đại dụng hỹ.
Trong quẻ Phệ Hạp xét thấy các học giả xưa nay giải nghĩa có chỗ ngộ nhận, bất cập, sau đây tôi xin góp ý giải các hào như sau:
Hào cửu một (sơ cửu) Lý Giảo, diệt chỉ vô cựu.
Lý là đi lại, dày xéo lên.
Giảo là cái cùm. Chỉ là ngón chân cái, dấu vết, tông tích, cử chỉ.
Câu này học giả Wilhelm (Uy Lệ Hồn) người Đức giải: Kéo lê chân trong cùm, mất cả ngón chân, nhưng đấy không phải hình phạt quá nặng, nên không có lỗi.
Cụ Phan Bội Châu giải: Tượng như đạp lấy cùm chân mà đứt mất ngón chân cái, nhưng cũng may vì thế mà không tội lỗi lớn. Từ xưa các chế độ phong kiến họ hiểu sai, hoặc xuyên tạc ý nghĩa của quẻ Phệ Hạp, cho nên trong nhân dân có kẻ phạm tội nhẹ thì phạt đem cùm thời gian, rồi cắt ngón chân cái, có kẻ phạm trọng tội, thì cắt mũi, xẻo tai tội nhân, xử phạt như vậy thật tàn bạo, bất nhân, không đúng theo kinh mà Thánh nhân đã truyền dạy.
Tôi giải: Diệt = cùm chân tội nhân ngồi một chỗ không đi lại được.
Chỉ = Dấu vết tội lỗi, ý nói đã cùm hai chân rồi, buột tội nhân ngồi một chỗ để tỉnh tâm, thấy những điều sai phạm mà ăn năn sám hối, xóa đi những vết tích, những tư tưởng xấu, hiện nay người ta bắt người giam gọi là để cải tạo tư tưởng.
Nếu như phạm nhân phạm tội nhẹ mà đem cùm và cắt đứt ngón chân cái đi, thì là điều tàn bạo độc ác biết bao, vì Thánh nhân đã dạy: Nhân thân là tiểu Thiên Địa = thân con người là Trời Đất nhỏ, xâm phạm đến thân người là xâm phạm đến Trời Đất. Luật pháp của Thánh nhân là đặt trên nền tảng háo sanh ố sát.
Hào 2: Lục nhị: Phệ phu, diệt tỷ, vô cựu.
Học giả người Đức Ông Wilhelm giải: ăn miếng thịt tươi ngon, bị cắt mất mũi, nhưng không phải là hình phạt nặng.
Cụ Phan Bội Châu giải: Tượng như người bị cắn mà đứt mất mũi, nhưng nhị là hào trung chính nên không tội lỗi.
Chữ phu ở đây là sự cáo mách bên ngoài, có thể là vu cáo, phu thụ chi tố, nghĩa là sự tố giác ở bên ngoài.
Phu là da ngoài, sự tai hại đến thân gọi là: thiết phu chi thống  = đau như cắt da.
Vị học phu thụ = học ở ngoài da, ý nói học hiểu không tinh, lờ mờ không hiểu sâu.
Tôi giải: Người giữ chức hình sự, nghe tố giác bên ngoài, chưa tìm hiểu sự việc minh bạch, nghe vu cáo mà nổi nóng giận, vì mất bình tĩnh nên xử phạt bất công.
Diệt tỷ ở đây có nghĩa là mất cảm giác vì nóng nảy, chính khí loạn động, tượng như người mất mũi không biết mùi, bình tĩnh xét lại không có tội nên vô cựu, không quan trọng. Thế mà các triều đại phong kiến hay áp dụng hình luật cắt mũi kẻ có tội, thật là tàn ác.
Hào ba – Lục Tam: PHỆ TÍCH nhục, ngộ độc, tiểu lẫn, vô cựu.
Giải nghĩa: Ăn miếng thịt khô trúng độc, cũng phiền não, xấu hổ hối hận, nhưng cũng không có gì nghiêm trọng.
Phệ tích nhục = ăn phải thịt khô để lâu ngày, ý nói sự việc để đã lâu đem ra xét xử, sẽ bị ngộ độc, tức là bị người ta thù ghét, phẩn uất, như ăn phải đồ ăn trúng độc.
Đây là hào nói quan chức ăn hối lộ bị dân phác giác nên gọi là ngộ độc.
Hào bốn cửu tứ - nguyên văn lời kinh: PHỆ CAN chỉ, đắc kim thỉ, Lợi gian Trinh Kiết.
Giải nghĩa: Ăn thịt khô phải nhai kỹ mới phát hiện có đầu tên bằng kim loại, mới được lợi, là không nuốt đầu tên vào trong bụng nên được tốt.
Vị trí của hào tứ có đức cương trực, lại ở vào quẻ Ly có óc minh đoán, dùng bậc người ấy mà nắm giữ luật pháp trị thiên hạ, tất nhiên giữ được đạo cương trực.
Đắc Kim thỉ, chữ thỉ là mũi tên, kim là hành Kim, ý nói người nắm giữ luật pháp phải biết rõ nguyên nhân sự việc xảy ra, thời gian, hoàn cảnh, vi phạm hình luật khinh trọng mà xét đoán, giống như kim loại tùy nghi mà biến hóa.
Quẻ này tượng như ăn hối lộ, biết trong sự lo lót có điều bất chính, phi nghĩa, sớm phát hiện nên được Lợi, Trinh, Kiết.
Hào 5 Lục Ngũ – Nguyên văn lời Kinh: PHỆ CAN NHỤC, đắc Hoàng Kim, Trinh lệ, vô cựu.
Phệ can nhục = ăn thịt khô, đắc hoàng kim = đặng hoàng kim, hoàng là sắc vàng, Kim là kim loại, hanh Kim, trinh = giữ chính bền. Lệ = lòng thương, lo sợ; vô cựu = không có lỗi.
Hào 5 Lục Ngũ chức năng của nó là lãnh đạo, có địa vị cao nhất trong quẻ, có thể lấy hào này để giải thích quyền uy và trách nhiệm của thời PHỆ HẠP.
Lục Ngũ tuy ở thế âm nhu mà đắc Trung lại ở địa vị cương, nhu pha cương là người minh đoán, tức là sự việc gì cũng phán đoán rõ ràng, địa vị cao có đức trung nên hình phạt người thì người phải phục.
Ở đây, xin giải rõ cụm từ Đắc Hoàng Kim.
Huỳnh là màu vàng, màu trí tuệ, tượng Trung Đạo Hoàng Thổ. Người mà đắc Trung Đạo cầm giữ luật hình thì rất công minh, không thể thiên lệch. Kim là vàng nguyên chất, lại có tính tòng cách biến dạng, ý nói người cầm luật pháp biết chấp kinh quyền biến theo thời, người như thế ra trị thiên hạ, có thể tránh phạm sai lầm, nên hào từ dạy Trinh, lệ vô cựu.
Hào 6 thượng cửu – Nguyên văn lời kinh: HẠ GIẢO, DIỆT NHĨ, HUNG

Cụ Phan Bội Châu giải: Người ở địa vị quẻ thượng cửu là người vô vị, lại ở cuối thời phệ hạp, tính chất cùng hung cực ác, cố ác tích nhi bất khả yểm, tội đại nhi bất khả giải.
Nghĩa là ác chứa chồng mà không thể che bịt được, tội lớn mà không thể dung thứ được, thế nên phải hung, phải chịu hình phạt nặng, tượng như người cuối cùng ra giữa tòa án mà bị xử án thật nặng, gia gông vào cổ, cắt đứt mất lỗ tai ấy là hạ giảo, diệt nhĩ.
Theo tôi Diệt Nhĩ ở đây ý nói nhiều người bị phạm tội ác, vì có lỗ tai mà không chịu nghe điều phải, nhĩ quan không linh giác, nên phải phạm tội nặng, không phải xử cắt lỗ tai phạm nhân.
Trong quẻ PHỆ HẠP có ba điều đáng chú ý:
1. Diệt chỉ = cắt ngón chân cái.
2. Diệt tỷ = xẻo lổ mũi.
3. Diệt nhĩ = cắt lỗ tai.
Vì hiểu lầm ba hình phạt này, nên thời phong kiến khi đem xử phạt tội nhân. Nếu tội nhẹ thì cùm và cắt ngón chân cái. Tội nặng thì cắt mũi, xẻo tai, xử phạt như vậy là sai với kinh pháp, vì tìm hiểu ý nghĩa kinh không thấu đáo tinh tường, nên đã gây không biết bao nhiêu oan hình cho tội nhân.
Ý tượng của quẻ Phệ Hạp: Khiết dã, cắn hợp, cấu hợp, bấu vấu, dày xéo, đay nghiến, phỏng vấn, hỏi han.
Ủy mị bất chấn chi tượng (Tượng yếu đuối không chạy được).

 QUẺ SƠN HỎA BÍ

Quẻ trên là quẻ Cấn (Núi) Sơn.
Quẻ dưới là quẻ Ly (Lửa) Hỏa.
Nên đặt tên là Sơn Hỏa Bí.
Nguyên văn lời Kinh: BÍ, HANH, TIỂU LỢI, HỮU DU VÃNG.
Bí là sáng sủa rực rỡ, quẻ Bí tượng trưng trang sức cho đẹp, hanh thông. Người xưa có câu: Vô bản bất lập, vô văn bất hành.
Bản là thuộc về tinh thần, văn là thuộc về hình thức, có sẵn bản chất, mà gia vào văn sức tất nhiên được hanh thông. Nếu không có bản chất tốt, dầu có trang sức đẹp đẽ, cũng chỉ được tiểu lợi. Hữu du vãng nghĩa là nếu chỉ nhờ trang sức mà thành tựu cũng chỉ được lợi nhỏ mà thôi.
Soán viết: BÍ, HANH, NHU LAI NHI VĂN CƯƠNG, CỐ HANH PHÂN CƯƠNG THƯỢNG NHI VĂN NHU, CỐ TIỂU LỢI HỮU DU VÃNG.
Đây lấy quẻ biến mà thích quái từ, nguyên hào âm nhu ở quẻ Khôn làm trang sức cho quẻ Càn thành ra quẻ Ly, nhu mà làm trang sức cho cương, nên được hanh  
Quẻ trên Cấn, gốc là Khôn, lấy hào dương quẻ Càn trang sức cho Khôn thành quẻ Cấn, ấy là dương cương lên làm văn sức cho nhu, nhờ cương trang sức vào mới được Lợi hữu du vãng, nhưng vì nhu là chủ, cương là khách nên được tiểu lợi mà thôi. Cương nhu giao thác thiên văn dã
Theo sự giao biến trên, thế là Âm với Dương, cương với nhu giao trộn với nhau thành ra thiên văn.
Thác = trộn, thiên văn = lý của Trời.
Tỷ như Nhựt Nguyệt giao thác với nhau thành ra đêm ngày (trú dạ). Hàn thử giao thác với nhau thành tứ thời … ấy là cương nhu giao thác thiên văn dã.
Còn nhân văn thì sao? Văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã.
 
 Cứ theo về tượng của hai quẻ, quẻ Ly ở trong là minh, quẻ Cấn ở ngoài là chỉ. Ly minh là hiện ra cách văn minh, Cấn ở ngoài chỉ là có cách hạn chế. Văn minh mà có cách hạn chế ấy là NHÂN VĂN, văn lý của người vậy.
Phụ chú: Bốn chữ văn minh dĩ chỉ rất có ý vị, văn minh là điều hay, nếu gặp thời ngụy văn minh mà không hạn chế, chọn lọc, đến nổi văn diệt kỳ chất, văn minh mà làm cho con người mất phẩm chất, trụy lạc thì là nguy hiểm lắm. Nên nói văn minh có hạn chế là vậy.
Quẻ Bí hào thượng Cửu, Tượng viết: Bạch bí vô cửu.
Nghĩa là lấy nguyên màu trắng làm trang sức, (bí sức) thật là một cách “phản bản quy chơn” rất hợp với Đạo Dịch.
Trong năm màu ngũ hành chỉ có sắc trắng là bản chất thiên nhiên, ban đầu có sắc trắng, sau mới trộn pha các màu. Nay lấy màu trắng để làm Bí, tức là trang sức bằng tự nhiên, nên có câu: Bí vô sắc dã;
Sắc trắng là màu của khí hư vô. Cái đẹp tự nhiên không màu sắc. Ý tượng của quẻ Bí: Sức dã, văn minh, trang sức, sửa sang, trang điểm, thấu suốt, rõ ràng.
Quang minh thông đạt chi tượng (Quang minh, sáng sủa, thấu suốt).


 QUẺ SƠN ĐỊA BÁC

Quẻ trên là Cấn (Núi) Sơn.
Quẻ dưới là Khôn (Đất) tượng Địa.
Nên đặt tên là Sơn Địa Bác.
Bác = Bóc ra, lột ra, bóc lột, đẽo gọt làm cho hao mòn. Soán từ: Bác, Bất lợi, hữu du vãng.
Nguyên quẻ Càn sáu hào dương, nay là hào âm thay vào được năm hào, chỉ còn có một hào dương, nên gọi là Quẻ Bác, là quẻ tháng chín, chốc nữa biến thêm một quẻ trên cùng thì thành quẻ Bát Thuần Khôn, là quẻ thuần Âm vô dương, là quẻ tháng mười. Cái lý âm dương tiêu tức, thạnh suy thật là ghê gớm, Dịch nói: Bác, bác dã, Nhu biến cương dã
Bác là tiêu diệt hết, cũng nghĩa là rụng hết, dương tiêu diệt hết là vì Âm nhu quá mạnh, khiến biến đổi hết dương cương. Trong thời Bác, tiểu nhân đắc chí hoành hành, bao nhiêu địa vị quân tử bị tiểu nhân chiếm hết, quân tử xử vào thời đại Bác, chỉ nên qui ẩn chờ thời, không còn hành động được gì nữa. Vị thế tiểu nhân đang trưởng, thì quân tử phải tiêu.
Cho nên nói: Bất lợi, hữu du vãng.
Theo triết lý Kinh Dịch: Cơ suy thường nấp ở lúc thịnh. Cơ thịnh thường nấp ở lúc suy. Quân tử ở thời Bác không phải là ẩn dật chờ thời mà không làm gì, phải nuôi dưỡng tinh thần, phục hồi khí lực, bồi bổ trí tuệ, tiềm cư bảo đạo, dĩ đãi thời kỳ, lúc nào cũng giữ tinh thần thanh tịnh vô vi, thối tàng ư mật, chớ nên lòe loẹt khoe khoang, phô trương tài trí. Lão Tử có câu: Đại trí nhược ngu, Đại dũng nhược khiếp, Đại Xảo nhược chuyết, Đại trực nhược khúc.
Nghĩa là có trí khôn ngoan lớn mà giả như người ngu.
- Có sức mạnh lớn mà làm như người hèn nhác, có tài khéo léo mà làm như người thô vụng, có Đức ngay thẳng mà làm như người cong quẹo.
Ông nói tiếp:   Tri kỳ hùng, thủ kỳ thư
                          Tri kỳ bạch thủ kỳ hắc.
Nghĩa là: Đạt thấu lý dương (trống) mà giữ lấy Lý Âm (Mái). Biết cho thấu lý trắng, mà giữ lấy cách đen.
Những câu ấy chính là hành vi động thái của người quân tử ở trong thời Bác vậy.
Ý tượng của quẻ Bác – Lạc dã = rơi rụng, tiêu điều, đẽo gọt, lộc cướp đi, không có lợi, đến rồi lại đi, tản mác, lạc lẽo nhau, xa lìa như hoang vắng, buồn thảm.
Lục thân băng thán chi tượng.
Tượng bà con thân thích xa lìa nhau.
Lục thân: sáu bậc bà con gần nhứt, cha mẹ, anh chị em vợ con.

 QUẺ ĐỊA LÔI PHỤC

Quẻ trên là quẻ Khôn tượng Địa (Đất).
Quẻ dưới là quẻ Chấn tượng Lôi (sấm sét).
Nên đặt tên quẻ là ĐỊA LÔI PHỤC
Nhìn vào tượng quẻ ta thấy có một hào dương nấp dưới năm hào Âm, tuy quyền lực của Âm còn nặng nề, dày đặc, nhưng đã có một tia hy vọng ánh sáng sắp xuất hiện.
Quẻ Phục là tượng phục hồi trở lại, đây là nguyên lý của vạn vật trong Càn Khôn Vũ trụ, hết đầy lại vơi, hết vơi lại đầy, Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ
Nghĩa là Trời Đất theo vòng quay tròn, quay hết vòng lại quay trở lại.
Nguyên văn lời kinh: Phục Hanh, xuất nhập vô tật, bằng lai vô cựu, phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng.
Giải nghĩa: Phục Hanh là khí dương đã phục, vạn vật có cơ tiệm tiến, nên chắc được hanh thông thịnh vượng.
Xuất nhập vô tật = Nhập là sinh ở bên trong, xuất là phát triển bên ngoài, vô tật là không tai nạn, bệnh tật.
Bằng lai vô cựu = bè bạn lần lượt kéo đến, ý nói các hào dương từ từ đến đánh bật các hào âm, dương càng thịnh, âm càng suy, nên không có gì lầm lỗi nữa, vô cựu.
Vô tật = thân thể được kiện toàn, vô cựu = sự nghiệp được hoàn thiện.
Phản phục kỳ đạo = Xem như quẻ này thì biết lẽ tiêu trưởng của vận trời, tráo đi trở lại, trưởng rồi quay lại tiêu, tiêu rồi quay lại trưởng, PHẢN PHỤC = Tráo trở.
Thất nhật lai phục = Dương bắt đầu tiêu từ quẻ Cấu, nhất âm sinh. Trải qua bảy hào, đến quẻ Phục Âm biến ra dương, mà nhất dương lại phục, đủ bảy hào mà dương sanh, bảy hào là tượng 7 ngày; hễ dương tiến thì âm thối, quân tử đạo trưởng, thì tiểu nhân đạo tiểu, nên nói lợi hữu du vãng.
Trong soán truyện có câu: PHỤC KỲ KIẾN, THIÊN ĐỊA CHI TÂM HỒ?
 Giải nghĩa: Ở thời Phục này, thấy cái tâm của Trời đất đó! Một câu này ý nghĩa thật là hay, Đạo lý cực kỳ rộng, mà giải thích cũng cực kỳ khó.
Hễ giống hữu sinh trong Vũ trụ, không có giống nào là không có tâm, tỷ như: Hoa phải có nhụy, trái phải có hạt, động vật phải có tâm, huống chi trời đất bao la vô cùng lại không có tâm sao? Tứ thời vì sao mà vận hành không nghỉ? Vạn vật vì sao mà sinh dục không thôi? Các tinh cầu vì sao mà luân chuyển không ngừng?
Chỉ vì Thiên Địa có tâm mà tác động mới được như thế. Vậy thì tâm thiên địa ở chỗ nào? Chỉ ở bầu khí thường xuyên hoạt động. Nếu bầu sanh quang khí không có thì thiên địa tiêu diệt.
Trình Tử có câu: Động chi đoan, nãi thiên địa chi tâm.
Nghĩa là cái mối động của khí tức là cái tâm của Trời Đất. Nên muốn tìm cho được thiên địa chi tâm, tức phải tìm ở nơi mối động, thì thấy được tâm thiên địa, cũng như ở con người muốn tìm cái tâm người phải tìm ở nơi hơi thở.
Muốn tìm cái tâm trong Dịch lý tất phải tìm nơi quẻ Phục. Trước kia còn quẻ Khôn thuần Âm, bao nhiêu sanh khí dương, âm trầm lặng lẽ, vạn vật cơ hồ như không sinh được.
Đông tàng vạn vật tiêu trầm, thế mà một hào dương biến động ở dưới hết quẻ Khôn, nhất dương lai phục, lòng sinh vật trong Trời Đất mới bắt đầu lộ trình sinh động, nên nói PHỤC KỲ KIẾN, Thiên Địa chi tâm.
Chúng ta thử nghĩ bao nhiêu động vật, thực vật, nếu không có không khí và ánh sáng trong một giờ tất nhiên phải chết, mà không khí và ánh sáng mặt Trời là do Tiên Thiên Khí tạo ra. Nên xem tiết đông chí nhất dương phục sinh thì thấy được Thiên Địa chi tâm, mà Thiên Địa chi tâm cũng là nhân tâm vậy.
Quẻ Phục là quẻ miêu tả tâm sinh vật của thiên địa, mà cái tâm ấy chính là ĐỨC NHÂN (lòng thương yêu).
Trời Đất sinh ra vạn vật cũng chỉ ở đức Nhân, người bắt chước Trời Đất, có tâm nhân ái, đem tình thương yêu và sự sống mà ban phát ra khắp nơi như ánh sáng và không khí thì xã hội tự nhiên có hòa bình.
Muốn có lòng nhân trước hết phải biết KHẮC KỶ PHỤC LỄ
KHẮC KỶ PHỤC LỄ VI NHÂN
Nghĩa là khắc khử được tánh ích kỷ của mình, hồi phục lại được lẽ Trời ấy là nhân.
Ý tượng của quẻ Địa Lôi Phục: Phản dã, tái hồi, lại có, trở về, bên ngoài, phản phục.
Sơn ngoại thanh sơn chi tượng (Ngoài núi lại còn có núi nữa).
Dưới đây xin chép lại bài Thánh ngôn: Lòng nhân, tức là tình thương yêu của THẦY.
“THẦY là cha của sự thương yêu, do bởi sự thương yêu mới tạo thành thế giới và sanh sản các con. Vậy các con sản xuất nơi sự thương yêu là cơ thể của sự thương yêu đó?
Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn Khôn thế giới, bởi thương yêu mà vạn loại hòa bình, Càn Khôn an tịnh, đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa.
Kẻ nghịch của cơ sanh hóa là quỷ vương là tay diệt hóa! Cũng như có của THẦY ắt có chết của quỷ vương.
Quỷ vương dục sự ghét mà tàn hại các con, vì ghét nhau vạn loại mới nghịch nhau, vì nghịch nhau vạn loại mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau thì là cơ diệt thế !!!
Vậy Thầy cấm các con từ đây ví không đủ sức thương yêu nhau, thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à !!!”
                                                                   Ngọc Hoàng Thượng Đế



 THIÊN LÔI VÔ VỌNG

Quẻ trên là quẻ Càn (Trời) Thiên.
Quẻ dưới là quẻ Chấn (sấm) Lôi.
Nên đặt tên quẻ là: THIÊN LÔI VÔ VỌNG.
Chữ vọng = xằng, càn, bậy.
Vô vọng = không lầm, hồn nhiên, vô tội, còn có nhiều nghĩa ví dụ:
Vô vọng động = không hành động liều lĩnh.
Vô vọng niệm = Không nghĩ nhớ càn bậy
Vô vọng tưởng = Không tưởng nhớ xằng bậy.
Vô vọng ngữ = không nói láo xằng bậy, trái với chân thật.
Soán từ, vô vọng, NGUYÊN, HANH, LỢI, TRINH, KỲ PHỈ CHÍNH, HỮU SẢNH, BẤT LỢI HỮU DU VÃNG.
Trong tạo hóa sẵn có cái lý tự nhiên, lý đó vận hành sanh hóa dưỡng dục muôn loài, không cần phải tạo tác, đó là ý nghĩa của vô vọng thuộc phần Thiên Đạo.
Con người suy nghĩ hay làm việc gì hợp với qui luật của Trời Đất, không làm trái luật tự nhiên của Trời Đất, ấy là vô vọng thuộc phần nhân đạo.
Trong Đạo Dịch rất quý quẻ “Vô vọng” nếu người ta tư tưởng hay hành động đến vô vọng thì trên hợp với Trời, với Đạo, dưới hợp với Đức Nhân, lòng thương yêu tất cả thì chắc được đại HANH.
Thường tình, đa số người đời thường hành động theo tà tâm, tư dục, tư lợi, cũng có lúc tình cờ hợp được vô vọng, nhưng rồi chỉ trong chốc lát là vọng ngay, như thế không phải là vô vọng, vô vọng phải từ tiểu đến đại, từ thỉ đến chung, không có một điều gì là trái với chính đạo, nên tiếp lấy câu: KỲ PHỈ CHÍNH HỮU SẢNH, nghĩa là có việc gì không phải chính Đạo, tất nhiên có lầm lỗi tai hại. Nên không làm lợi được việc gì (bất lợi hữu du vãng)
Phỉ chính = chẳng phải chính.
Hữu sảnh = có lầm lỗi tai hại.
Chữ vô vọng lý giải theo tượng quẻ.
Quẻ Chấn nguyên là quẻ Khôn, hào sơ quẻ Khôn biến ra một hào dương mà làm Chấn. Hào dương quẻ Chấn ở nội quái làm chủ cho sự chấn động, khi sấm sét chuyển động ở dưới quẻ Càn rất tương ứng với luật tự nhiên của Trời Đất, nên đặt tên quẻ là vô vọng.
Hào năm của quẻ Càn có đức dương cương ở vị Trung Chính, hào nhị quẻ Chấn cũng lấy Trung Chính ứng với hào ngũ, như thế là hợp với đạo vô vọng, đã vô vọng tất được đại hanh thông và đặng trung chính.
Trên dưới cảm ứng với nhau rất là thông thoáng hồn nhiên nên gọi là vô vọng.
Tượng viết: THIÊN HẠ LÔI HÀNH, VẬT DỮ VÔ VỌNG, TIÊN VƯƠNG DĨ MẬU ĐỐI THỜI DỤC VẠN VẬT.
 Nghĩa là tượng của quẻ nói rằng: ở dưới Trời mà có sấm dậy thế là nhị khí âm dương hòa hợp cọ sát nhau mà thành tiếng, lúc bấy giờ côn trùng thảo mộc đều trổi dậy hứng lấy sanh khí một cách vô vọng tự nhiên mà Trời đã phú cho.
Tiên vương xem tượng ấy thể theo Đạo Trời mà sắp đặt một cách nhân dân ái vật, tùy thời mà dưỡng dục muôn loài, làm cho tất thảy đều tốt tươi đẹp đẽ, ấy là: Dĩ Mậu đối thời dục vạn vật.
Dĩ Mậu = lấy sự tốt đẹp thịnh vượng làm mục đích đối thời dục vạn vật là tùy thời tiết mà sanh hoạt nuôi dưỡng vạn vật cho thích nghi với hoàn cảnh và điều kiện phát triển của mỗi loài mỗi vật cho có kết quả tốt đẹp.
Ý tượng của quẻ vô vọng = không bậy, xâm lấn.
Cương tự ngoại lai chi tượng.
Tượng kẻ mạnh từ ngoài đến.

 QUẺ SƠN THIÊN ĐẠI SÚC

Trên quẻ Cấn (Tượng Núi) Sơn.
Dưới quẻ Càn (Trời) Thiên.
Nên gọi tên quẻ là: SƠN THIÊN ĐẠI SÚC.
Nguyên văn lời Kinh: ĐẠI SÚC, LỢI TRINH, BẤT GIA THỰC, CÁT LỢI THIỆP ĐẠI XUYÊN.
Chữ Súc có ba nghĩa:
1. Súc tụ = chứa chất, nhóm họp lại, ta thường nói súc tích, là tích chứa lại.
2. Súc dưỡng = chỉ việc nuôi dưỡng.
3. Súc chỉ = chỉ việc kìm chế, không nên vọng động, dừng lại. Đại ý quẻ ĐẠI SÚC dạy người ta muốn ra giúp đời, trước tất phải có tài đức, hoặc chứa trữ bằng đạo đức, hoặc chứa trữ bằng học thức, bằng tài trí, gồm đủ ba món ấy mới gọi là Đại Súc. Tuy nhiên muốn tích trữ nhiều, phải chọn lọc những tinh hoa, thâu góp nhiều phải đề phòng những hỗn tạp, sa thải những gì bất trinh, bất lợi, nên lời Kinh nói: Đại Súc, Lợi Trinh. Nghĩa là Đại Súc vẫn là Đức chứa trữ lớn mà cần phải cho được chính trinh.
Hễ người hành Đại Súc mà đắc chính thì Đạo đức hàm súc bên trong, uy tín, danh dự tràn khắp ở bên ngoài, tự nhiên xã hội phải hoan nghênh, quốc gia phải trọng dụng. Lộc Trời cho mình hưởng, chức vị nhân dân tôn cử mình làm, thân mình là người chung của thiên hạ, đâu còn là người của gia đình ăn cơm nhà nữa, nên nói bất gia thực (), nghĩa là tinh thần đạo đức đã súc tích, tài trí đã uẩn súc đầy đủ, thiên hạ tin cậy mình, mình phải hy sinh phục vụ xã hội nhân sinh, không còn lo việc nhà nữa, nên mới được cát.
Đem tài Đại Súc ra gánh vác xã hội quốc gia trong thời bình đã đành, mà trong thời loạn chiến tranh, giặc giã, nguy hiểm đến tính mạnh mình càng tỏ ra can đảm hy sinh gánh vác việc đời, đem thân vượt qua nguy hiểm, ấy là LỢI THIỆP ĐẠI XUYÊN.
Xem tượng quái ta thấy, quẻ dưới tức là nội quái: Càn là Trời, quẻ trên ngoại quái Cấn là Núi.
Trời đã lọt vào giữa núi, ý nói: Trời là đấng toàn tri, toàn năng, là linh khí vũ trụ, Cấn đã tiếp nhận linh khí của Càn, Cấn trọn tin nơi Càn nên gọi là Súc chỉ.
Cấn là tượng Núi mà Núi đứng yên một chỗ lặng lẽ mà chỉ, nguyên Cấn là quẻ Khôn, mà nét thứ ba hào dương ở quẻ Càn điền vào mới biến Khôn thành Cấn nên phải chỉ (dừng lại) gồm hai quẻ Cấn Càn mới gọi là Sơn Thiên Đại Súc.
Tượng quái nói lên con người đang ngồi thiền định, lặng lẽ ngồi gom thâu điển quang của Trời Đất nên gọi là Đại Súc hay Súc tụ, nhờ Súc tụ linh điển nên trí huệ được phát huy, hành động hợp theo đạo Trời, thuận theo qui luật vũ trụ nhân sinh.
- Súc chỉ = chỉ ở đây là nơi dừng lại ở chỗ Chí Thiện (chỉ ư chí thiện) đó là nơi súc chỉ của người quân tử.
- Súc dưỡng = có nghĩa là dưỡng sanh tánh mạng hay nuôi dưỡng trí thức và đạo đức cho con người.
Người học Dịch xem tượng này phải lo uẩn súc trong mình tức là chất chứa sâu rộng cái đức cái tài cho thật lớn, mà công phu súc dưỡng tài đức trước hết phải gồm hai phần là TRI và HÀNH. TRI là phải biết cho đến nơi, HÀNH là phải làm cho đến chốn. Trước có tri sau mới có hành, nên quân tử dụng công phu bằng học vấn, tìm tòi nghiên cứu kinh điển, siêng năng tịnh định bằng pháp Quy Tức Công để phát triển trí tuệ, tìm cái Lý chân Tri. Tri bao nhiêu, hành bấy nhiêu để nuôi dưỡng chánh khí và tài đức của mình. Dĩ Súc Kỳ Đức.
Đó là căn bản làm nên Đại Súc.
Ý tượng của quẻ Đại Súc, Tích tụ, chứa chất, dự trữ, để dành.
Đồng loại hoan hội chi tượng.
Đồng loại hội hợp vui vẻ, cục bộ.






Vĩnh Long, ngày 24 tháng 3 năm 2008
Kính gởi Giáo Sư Ngọc Trường Thanh

Thưa Giáo Sư Hiền huynh:
Sau khi trao đổi một vài tiểu tiết trong tác phẩm Tìm hiểu khí tượng các quái, Lê tôi tiếp tục theo dõi tâm nguyện của GS và vô cùng hoan hỉ, khâm phục tính nhất quán của GS từ rất nhiều năm qua trong Dịch học. Càng đọc, càng thấy tươi sáng, mát mẻ và thoảng vui vì hiện thời đang có người Việt chịu khó tìm tòi và thực hành câu “tự cường bất tức”, nhiệt thành nhắc nhở người có lòng nhân nên biết “Tri Hành”.
Giáo Sư thuần thục phép Quy Tức, thờ Thiên Nhãn, học Dịch lý nay đến lúc thấy Dịch trong Cao Đài, Cao Đài trong Dịch, Giáo Sư đang đến nơi cần đến. Chứng minh điều này là ba quẻ cuối tập. Giáo Sư không nói câu kết luận có lẽ muốn dành cho người đọc.
Khó mà nói rằng Dịch hiện hữu vì thế nhân hay nhờ thế nhân. Chỉ biết rằng với những vạch đơn vạch kép Dịch tạo ra 8 cung, 64 quái và 384 hào luôn luôn biến dịch, cùng thông để đưa học giả đến cảnh giới siêu việt ngay đây là biến và bất biến không hai. Muốn đến được cảnh giới tối cao này, đương nhiên là dày công và thông được ba bước, tức ba quẻ cuối tập.
1. Địa Lôi Phục: Hành giả buông hết, chờ hào sơ của thuần Khôn động biến hào dương. Tiên Thiên Khí phát sanh ở Tý tại huyệt Vỹ Lư… Quẻ PHỤC dạy phải “Khắc kỷ phục lễ”, trở về với NHÂN, với lòng THẦY (Đạo). Thiếu NHÂN thì còn gì để nói!
2. Thiên Lôi vô vọng: Vô vọng dễ hiểu là không tạp niệm, là tâm trí sáng rỡ như Thiên Nhãn, như “Phật nhật tăng huy”, thoát khỏi đối đãi thiện ác.
3. Sơn Thiên Đại Súc: Đại Súc không có nghĩa là ôm đồm, là tham lam mà là phải rộng chứa tài đức, phải “cách vật trí tri”, là người hiểu biết vì muôn người. Giáo Sư có lý khi gợi nên hình ảnh hành giả thiền định vững như quả núi, thu giữ Tiên Thiên khí bằng Quy Tức Công, ung dung lẽ đạo nhiệm mầu, đủ cả TRI lẫn HÀNH, tùy thời mà thi thố, vận dụng, hào ly không sai khác với lòng NHÂN bao la của THẦY. Đại Súc không lìa Đại Đạo. Lê tôi hội được như vậy, không quên mình cũng phải tri hành như soạn giả.
Lê Tương Ứng                                                               Kính bút


43 Nguyễn Văn Lâu, P8                         
TXVL – VĨNH LONG                                               Bình Tam Lê.





Tuy Hòa, 05 tháng 04, năm 2008
Thân chào hiền-đệ Lê Tương Ứng (Bình Tam Lê)
Tôi, tuy chưa gặp mặt Hiền-đệ, nhưng sau nhiều năm tâm giao, cảm thấy Hiền-đệ đã đắc chứng được Dịch-lý là Đạo Trời, là lý đương nhiên và tự nhiên của vạn vật trong cơ Tạo-hóa sinh thành hủy diệt, là vòng đại diễn của Trời Đất trong thời gian vô cùng và không gian vô tận.
Khó mà nói rằng: Dịch hiện-hữu vì thế-nhân hay nhờ thế nhân. Đúng vậy! bản thể của Dịch tự nhiên mà có, Đạo Trời cũng vậy, tự nhiên hiện hữu khắp trong Trời Đất, cũng như không khí và ánh sáng không phải vì con người mà có, mà chính con người phải tìm và cần đến nó.
32 Quẻ Dịch đã diễn-giải, tôi muốn nói lên cái Thần Khí của người học Dịch, còn một nữa chặng đường dành cho người đọc vận dụng, thể nghiệm và phục hồi chơn khí, hạ thủ công phu …
Muốn được Pháp huyền-công thì phải vô-vọng, và đại-súc như người ngồi thiền định, như núi đứng yên một chỗ mà tri chỉ, có thể nối tiếp được điễn-linh của cơ tạo, trời người làm một là vậy.
Cám ơn Hiền-đệ đã đọc và bày tỏ những lời đồng cảm, tôi rất vui! Dù sao mình đối với Dịch cũng chỉ là “Ếch nằm đáy giếng”.
Xin gởi lời thăm chung huynh đệ, cầu chúc sức khỏe và ân điễn đồi dào!
Thân mến






                                                     Giáo Sư Ngọc Trường Thanh.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét