Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

VĂN MINH VIỆT NAM QUA DỊCH HỌC



NGUYỆN CẦU

                        Lấy Đạo học rèn tâm luyện trí,
                        Dụng “Văn-Minh Dịch Lý” khai cơ,
                               Hướng về nguồn cội ban sơ,
                 Vẹt tan u-ám bến bờ rõ thông.
                        Đã quyết chí nâu sồng chay lạt,
                        Nghiệp “Trung-Hưng” ghi tạc lòng son;
                               Dẫu cho biển cạn non mòn.
                 Hồn thiêng Lạc-Việt vẫn còn trinh nguyên.

                                                          Giáo-Sư Ngọc Trường Thanh
  

 Vĩnh Long, ngày 6 tháng 8 năm 2001

Kính thưa Giáo-Sư:
Mới đây, bạn Đạo chí thân Nguyễn Minh Cai có trao cho tệ sĩ quyển “Văn Minh Việt Nam qua Dịch Học” do Giáo-Sư dày công biên soạn và gởi biếu. Huynh đệ ở đây nhường tệ sĩ đọc trước, vì tuổi đời trên 70 lại có phần nào quen với … Đông Y và Bát Quái. Các bạn còn dặn phải viết thư cảm tạ Giáo-Sư. Vậy thì biết chi nói nấy. Về hình thức, đây là một ấn bản có giá trị, giấy tốt, chữ rõ, gần như không có lỗi chính tả (người đọc không chán). Đồ hình và quái hào rất chính xác, không bôi xóa. Chữ Hán rất kỹ vừa rõ vừa đẹp, tất cả biểu lộ hạnh và công của soạn giả đáng quý biết chừng nào!
Về nội dung thì huynh đệ vừa học và tán thán Thượng-Đế đã ban cho Giáo-Sư một tầm nhìn thật sâu, thật vững. Hà Đồ, Lạc-Thư nhiều người cho là mơ hồ. Ở đây, Giáo-Sư đã minh họa thật rõ ràng. Các con số và phương hướng đều đúng nơi đúng vị. Đặc biệt nhất là các số 49 và 50, một kiến giải hợp lý. Việc vận chuyển từ Hậu Thiên trở về Tiên Thiên cũng rất khoa học dễ hiểu. Cửu Trù cũng rất minh bạch. Tư liệu này, đem Dịch Lý vào cuộc sống là đúng theo cơ Tạo Hóa, việc đáng đề cao và hỗ trợ. Thành thật cảm ơn sách quí và cơ ngơi lời nguyện cầu.
Kính chúc Giáo-Sư khang an và thành công mỹ mãn.
                                                                                                Kính bút



Địa chỉ: Lê Tương Ứng
43 Nguyễn Văn Lâu, Vĩnh Long                                    Lê Tương Ứng

 
CẢM ĐỀ
Soạn phẩm: VĂN MINH VIỆT NAM QUA DỊCH HỌC
Của Giáo-Sư Ngọc Trường Thanh

Dày công nghiên cứu lẽ huyền vi
Lịch sử Việt Nam quả diệu kỳ
Dịch học mở toang đường hậu vận
Văn minh vạch rõ lối tiên tri,
Bút vàng lóng lánh, tâm khai ngộ
Lời ngọc rỡ ràng, trí phát huy
Dân tộc tự hào nguồn gốc Tổ
Tiên Rồng muôn thuở dáng uy nghi

Tiên Rồng muôn thuở dáng uy nghi,
Lạc Việt Dư Đồ đã khắc ghi
Mười tám vua Hùng gầy đế nghiệp
Một trăm con Việt mở biên thùy
Cơ Trời huyền ảo luôn luân chuyển,
Hồn Nước thiêng liêng chẳng biến di
Một áng hùng văn, bao trí lực
Xiển dương chân lý Đạo Tam Kỳ.

Kính tặng Hiền Huynh Giáo-Sư Ngọc Trường Thanh.
            Tuy Hòa, chớm xuân Nhâm Ngọ, 01-2002

                    ANH PHONG
          NGÔ ĐÌNH PHỤNG
Ấp 5, xã Hòa Hội, Xuyên Mộc
        Bà Rịa-Vũng Tàu.


ĐỌC “VĂN MINH VIỆT NAM QUA DỊCH HỌC”
CỦA GIÁO SƯ NGỌC TRƯỜNG THANH

Đọc Văn Minh Việt Nam qua Dịch Học, người ta nhận ra hai trọng tâm của tác phẩm.
1. Dịch học là nền học vấn cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Dịch học không phải là một triết học mà là một nền học vấn, tức là một hệ thống chân lý được chứng minh hoặc bằng thực nghiệm, hoặc bằng suy lý kết hợp với lịch duyệt. Giáo-Sư Ngọc-Trường-Thanh đã thuyết minh tính cách chân lý ấy qua lý giải về âm dương và ngũ hành và qua ứng dụng nơi Y Dược học cùng Chính trị học ở Hồng Phạm Cửu Trù.
Nền học vấn Dịch vốn là cổ truyền của dân tộc Việt Nam là bởi như Giáo Sư Ngọc Trường Thanh chứng giải:
- Đức Phục Hi người sáng tạo Dịch học, là viễn tổ của dân Việt tộc nói chung, của dân tộc Việt Nam nói riêng. Cận tổ của dân tộc Việt Nam Đức Kinh Dương Vương là hậu duệ của Đức Phục Hi, ngôi Vua của Quốc gia Việt tộc bắt đầu từ năm 4480. Với Đức Phục Hi truyền tới năm 3220 là Đức Thần Nông, ba đời sau thì đến Đức Đế Minh sau đó Quốc gia Việt tộc phân hai, người con thứ của Đức Đế Minh được Vua cha phong làm Việt Nam Vương năm 2879.
Các Vua khai sáng nước Việt Nam đã dùng truyền sử để cho con cháu nhận thức mối liên hệ của mình với tổ tiên và với nền văn hóa của tổ tiên.
- Đế hiệu Kinh Dương Vương chỉ rõ nước Việt Nam là Quốc gia Việt tộc chia hai, gồm Kinh Châu và Dương Châu, tức đất đai Miền Nam sông Dương Tử.
- Đế hiệu Lạc Long Quân chỉ rõ dòng dõi và nền văn hóa của dân tộc Long, Rồng là chỉ viễn tổ Phục Hi mà truyền sử kể là con cháu của Thần Rồng, Lạc là chỉ Hà Đồ và Lạc Thư, cơ sở của Dịch học.
- Truyền sử Đức bà Âu Cơ sinh ra 100 trứng là chỉ tổng số điểm nơi Hà Đồ và Lạc Thư, việc chia hai số còn chỉ lẽ cân bằng giữa Âm và Dương.
- Triều đại Hồng Bàng truyền được 18 đời, con số 18 này bao hàm ý niệm đối đãi Âm-Dương, số Âm là đối tác của số Dương và nghịch lại, và cũng nói lên Lạc Thư có 9 số thuận nghịch hai chiều, nên 9x2 = 18.
2. Cần bảo tồn và phát huy nền học vấn Dịch:
- Giáo-Sư Ngọc-Trường-Thanh thuyết minh: Dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay vẫn trân trọng và bảo tồn nền học vấn cổ truyền ấy, biểu thị nơi lòng thành kính đối với Trời, do đó tinh thần tuân thủ mệnh Trời, lòng mong muốn phúc đức, quý chuộng đạo lý nhân nghĩa, lòng ham mộ đức hạnh (một trong ngũ phước) và chán ghét ác tật (một trong lục cực) còn về chính trị thì đạo lý nhân chính được các Hùng Vương thực hiện liên tục, đồng thời cũng là nguyện vọng không bao giờ dứt của dân chúng mọi thời.
Để phát huy nền học vấn Dịch cần phải học Dịch cho kỹ và ứng dụng cho thấu đáo: “Chúng ta học Dịch cốt tìm ra sự quân bình, sự đối tác cân phân của Âm Dương và ngũ hành”.
Công việc ấy củng cố tinh thần “Thờ Trời”, ngày xưa thờ Trời và Tế Trời là quyền của Vua, còn ngày nay thì “Ai ai cũng có quyền thờ Trời, tế Trời”, theo phát biểu của Giáo-Sư Ngọc-Trường-Thanh.
Nền học vấn Dịch có mục tiêu trước hết là hướng dẫn mọi người tu dưỡng bản thân, từ đó gánh vác chính sự, mưu thái bình thịnh trị cho cộng đồng.
Tu thân là việc gốc của con người như lời dạy của Đức Khổng TửCái gốc hư mà cái ngọn tốt, điều đó không có” (Kỳ bổn loạn nhi mạc trị giả, phủ hĩ). Chân lý ấy ngày nay rất sáng tỏ như phát biểu của nhà Bác học Pháp Calexis Carrel thế kỷ 20 “Ý thức đạo đức quan trọng hơn trí tuệ, khi nó biến mất ở một Quốc gia thì tất cả cơ cấu xã hội bắt đầu lung lay”. Trích ở tác phẩm L’ homme cet inconnu.
Văn Minh Việt Nam Qua Dịch Học” của Giáo-Sư Ngọc-Trường-Thanh ngoài việc chứng minh Dịch học cũng là của dân tộc Việt Nam, để cổ vũ mọi người bảo tồn và phát huy nền học vấn ấy, còn làm sáng tỏ mục tiêu hướng dẫn tu dưỡng của Dịch học, nên là một tác phẩm ra đời đúng lúc và rất bổ ích.
Tuy Hòa, ngày 01 tháng 02 năm 2001
Nguyễn Bá Quát



I. TÌM HIỂU TRUYỀN SỬ VIỆT NAM QUA ĐẠO DỊCH
Tổ tiên Việt Nam là con cháu của Vua Phục Hi, Thần Nông may duyên được thừa hưởng một di sản văn hóa vĩ đại ấy là Kinh Dịch. Nhờ bảo tồn được chân truyền của Đạo Dịch, nên khi di cư xuống phương Nam, đến đất Phong Châu lập Quốc, ông cha ta đã biết vận dụng nền minh triết của Đạo Dịch tạo thành một lý tưởng cao đẹp mà xưa nay người Việt Nam ta ít ai để tâm tìm hiểu, ấy là huyền thoại:
- Đế Minh với nàng Tiên.
- Kinh Dương Vương với Long Nữ.
- Lạc Long Quân với Âu Cơ.
Ba nguyên lý căn bản lập ra nước Việt Nam 
Kinh Dịch là bộ sách “Tượng Tâm Học” Đức Phục Hi có nhãn quan thấu thị biết được lẽ huyền vi mầu nhiệm của Đất Trời nên Ngài mượn một gạch đứt tượng trưng cho khí Âm (- -), một gạch liền tượng trưng cho khí Dương ( ̶ ), làm ra Bát Quái và 64 quẻ để diễn đạt lý Âm Dương sanh thành, ngũ hành biến hóa, sản sinh ra vạn vật chúng sanh.
Đạo Dịch tự nhiên có sẵn trong Trời Đất, Đức Phục Hi làm ra Dịch không phải tự ý, mà chỉ dựa vào lý tự nhiên của tạo hóa, xem các thiên tượng mà mô tả bằng quái hào, bằng văn tự để người đời tu học cảm thông với lý Trời Đất.
Học Dịch trước hết phải có tâm chí thành, trung thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của lý trí, tình cảm, ý thức và tâm thức gọi tắt là “TÂM HỌC”.
Sách Dịch bao gồm những lối văn rời rạc, khúc chiết, những chữ nghĩa ẩn dụ, nên học Dịch cần phải quan, phải ngoạn, phải chiêm, thì mới mong sở đắc phần nào. Kinh Dịch dạy:
Thị cố quân tử cư tắc quan kỳ tượng nhi ngoạn kỳ tư.

Quan là xem xét kỹ các tượng, ngoạn là ngắm nhìn ưa thích cái lý của các từ, cư là ở yên, ý nói có cái tâm thanh tịnh an lạc, câu này có nghĩa là người quân tử có tâm thanh tịnh an vui, rồi mới quan sát, ngắm nhìn các tượng quái, vui thú đắc ý với các từ khi tìm ra ẩn dụ của nó.
Chiêm có nghĩa là bói, xem, nhìn, đoán, suy luận “động tắc quan kỳ biến, nhi ngoạn kỳ chiêm”.
 
 Động thì phải xem cái biến hóa, đồng thời ngoạn điều mình chiêm nghiệm.
Đường lối học Dịch không luận giải theo lối duy lý, cũng không học theo lối hữu vi, nhưng hoàn toàn để tâm im lặng bất động rồi đột nhiên cảm thông được cái lý ở trong thiên hạ, nên gọi là tâm học.
Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ”.
 
Ngày nay Đạo Cao-Đài phục hồi Đạo Dịch, lập Thánh hình thờ Trời gồm có 3 đài: Bát Quái Đài là cơ quan Lập Pháp, Hiệp Thiên Đài là cơ quan Bảo Pháp, Cửu Trùng Đài là cơ quan Hành Pháp, mỗi đài đều có chức năng thực hiện tinh hoa của Đạo Dịch vào đời sống nhân sinh, xã hội.
Dịch là bộ sách bao gồm hết thảy Vũ-trụ vạn vật đều đầy đủ trong đó, có cả Đạo Trời, Đạo Đất và Đạo Người.
Dịch chi vi thư dã, quản đại tất bị, hữu Thiên Đạo yên, hữu Địa Đạo yên, hữu Nhân Đạo yên”.
 
Kinh Dịch chính là bộ sách vĩ đại, không phải về lượng mà là về phẩm, nó đã tác động tâm thức của một khối người học thức, trí thức lớn nhất trong nhân loại trên sáu nghìn năm nay, đủ thấy độ sáng suốt, sâu xa bền bỉ của nó. Cũng chính vì tính chất tâm linh đó mà Đạo Dịch sẽ hướng dẫn nền văn minh nhân loại trong những thế kỷ sau này.
Trong Thánh huấn của Đạo Cao-Đài, Thượng-Đế có dạy:
                          Muốn cho trẻ có duyên trở lại,
                          Thầy phải sai ba phá,i nhứt kỳ,
                               Di Đà, Thái Thượng, Phục Hi,
                     Giúp phần phổ độ, duy trì Đạo Cha.
                               Thái Thượng sửa tánh phàm tà,
                     Phục Hi Dịch Quái, Di Đà phá mê…

Trong nhứt kỳ phổ độ, Trời cho giáng thế ba vị Giáo Tổ, Phật có Di Đà, Tiên có Thái Thượng, Thánh có Đức Phục Hi làm ra Dịch Quái. Theo Kinh Dịch thì Bát Quái là lò sanh hóa của tạo hóa có đấng hóa công (Thái Cực) làm chủ, nắm trọn trong tay cơ sáng tạo, hủy diệt và bảo tồn, cũng như Dịch có ba nguyên lý: Bất Dịch, Giao Dịch và Biến Dịch, luân chuyển như một vòng tròn không mối manh, không có chung thủy (hư hoàn vô đoan).
Con người dù tài gỏi đến đâu, khoa học dù tiến hóa đến cực điểm cũng không thể lấy lý trí hữu hạn mà cân đo đong đếm cái vô hạn, cái bất biến trường tồn của Vũ-trụ, cho nên học giả từ xưa nay, tùy trình độ giác ngộ học hiểu kinh Dịch theo quan niệm của riêng mình, người thích chính trị thì lý giải Dịch theo chính trị, người thích khoa học thì lý giải theo khoa học, người thích tượng số học thì lý giải theo tượng số học, y học, tướng học, nhâm, cầm, độn, toán, đạo học, v.v… cũng đều dựa vào đó mà nghiên cứu lý giải phần nào. Không có ai giám tự hào thông đắc Kinh Dịch một cách rốt ráo.
Đức Khổng Tử, người đời tôn là Vạn Thế Sư Biểu còn để lại một câu bất hũ “Giá cho ta được ít năm nữa để học cho trọn bộ Kinh Dịch, chắc khả dĩ không lầm lớn!”. (Giá ngã sổ niên tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá dã).



Dựa vào sử sách xưa lưu lại để chứng minh rằng: Vua Phục Hi là Thủy Tổ của người Việt Nam, theo tham khảo của Giáo Sư Nguyễn Bá Quát:
1. Loài người từ thời sơ khai sống quần tụ thành thị tộc, mỗi thị tộc gồm những người cùng chung một tổ tiên, dần dà phát triển đông đảo. Các thị tộc ở gần nhau kết hợp thành bộ lạc, đến khi biết trồng lúa thì các bộ lạc ở gần nhau kết hợp thành tiểu quốc, rồi khi các tiểu quốc ý thức được các sự liên hệ huyết thống liền kết hợp với nhau thành một quốc gia. Quốc gia phân tán của Việt Nam thành lập năm 4480 trước Tây Lịch với vị Vua đầu tiên là Đức Phục Hi, Vua tổ của Việt Nam.
2. Thời ấy Vua của quốc gia gọi là Nguyên Hậu, Vua của tiểu quốc gọi là Hậu. Nguyên Hậu cũng chỉ là Vua một tiểu quốc được các Hậu khác suy tôn, chứ không trực tiếp cai trị các tiểu quốc khác. Bấy giờ trên giang sơn Việt tộc có rất nhiều tiểu quốc nên được gọi chung là vạn bang, họ tộc gọi là Bách Việt. Đức Phục Hi được suy tôn do tài trí siêu việt của Ngài, Ngài làm ra lịch thời tiết, chế tác âm luật và đàn 50 dây, đặt ra chữ viết, nhất là sáng tác ra Kinh Dịch. Sự tích Hà Đồ Lạc Thư xác định tiểu quốc của Ngài nằm giữa sông Lạc Thủy, ở Tỉnh Hà Nam, và sông Mạnh Hà ở Tỉnh Giang Tô, con gái Ngài là Phục Phi bị đắm thuyền trên sông Lạc hiển linh nên được dân chúng tôn thờ làm Thần sông Lạc, em gái song sinh của Ngài là bà Nữ Oa cũng có mình rồng như Ngài. Như vậy, Ngài là bậc phi thường có thật chứ không phải là nhân vật thần thoại.
3. Thời Đức Phục Hi văn minh Việt tộc cao lắm, khôn thua các nền văn minh Ấn Độ, Sumer, Ai Cập, cũng xuất hiện trong thiên niên bảy trước Tây Lịch. Tại Hà Nam trong thập niên 30 các nhà khảo cổ đã đào được những di vật như nông cụ bằng đá, guồng máy quay tơ bằng đá, đồ sành có vẽ màu, vạc ba chân, đồ trang sức bằng ngọc, và nhất là nhiều đồ đồng. Như vậy, với Đức Phục Hi Việt tộc đã bước vào thời sơ sử. Cho đến 3080 trước Tây lịch suốt 1400 năm, ngôi Nguyên Hậu vẫn thuộc dòng Vua Phục Hi, nhưng chỉ có ba vị còn truyền lại là Tam Hoàng: Phục Hi, Nữ Oa và Thần Nông, đó là do công nghiệp lớn lao của các Ngài. Đức bà Nữ Oa được truyền sử kể lại là Bà có tài luyện đá ngũ sắc để vá Trời, có lẽ đó là sách ghi Đức Bà có công cải tiến kỹ thuật đồ đá, và cũng có lẽ là biết tìm ngọc trong đá (tức là đá ngũ sắc) còn đức Thần Nông có công cải tiến kỹ thuật nông nghiệp và kỹ thuật chữa bệnh bằng thảo dược.
4. Cháu ba đời Vua Thần Nông là Đế Minh đi tuần thú phương Nam gặp bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục, Vua chia hai quốc gia, phần phía Bắc sông Dương Tử giao cho con trưởng là Đế Nghi làm Vua, phần phía Nam sông Dương Tử giao cho Lộc Tục được Vua phong làm Việt Nam Vương cũng gọi là Kinh Dương Vương. Nước Việt Nam bao gồm Kinh Châu và Dương Châu bấy giờ là năm Nhâm Tuất 2879 trước Tây Lịch.
5. Năm 2700 trước Tây lịch do Hiên Viên, tục gọi là Hoàng Đế từ Thanh Hải theo sông Hoàng Hà vào chiếm Tỉnh Cam Túc của Việt tộc, từ đấy bắt đầu họa Bắc xâm.
Hậu duệ của Đế Nghi không cản được bước tiến của quân Bắc xâm nên các tiểu quốc phải đề cử người tài giỏi thay làm Nguyên Hậu, việc chống giặc lúc bấy giờ thực hiện ở quanh Tỉnh Cam Túc nên thủ đô lúc bấy giờ phải dời từ Hà Nam ra Sơn Tây (mặt Đông Tỉnh Cam Túc là Sơn Tây, mặt Đông Nam là Thiểm Tây) đó là thời Ngũ Đế và Tam Đại.
NGŨ ĐẾ LÀ:
-         Đế Cao Dương (hay Chuyên Húc) lên ngôi năm 2518 trước TL.
-         Đế Cao Tân (Đế Cốc) lên ngôi năm 2453 trước TL.
-         Đế Chí lên ngôi năm 2365 trước TL.
-         Đế Nghiêu lên ngôi năm 2356 trước TL.
-         Đế Thuấn lên ngôi năm 2255 trước TL.
Sử ghi rõ thủ đô đời Nghiêu Thuấn là Bình Dương Tỉnh Sơn Tây. Thời Vua Vũ nhà Hạ thủ đô không đổi, đến nhà Thương Vua Thứ 8 là Bàn Canh dời đô về đất Ân Khư thuộc Tỉnh Hà Nam, từ đấy nhà Thương được gọi là Ân. Việc dời đô tất do áp lực quá mạnh của Bắc tộc, có thể lúc ấy họ chiếm một phần của Tỉnh Sơn Tây.
Vũ Vương quê ở Kỳ Châu Tỉnh Thiểm Tây sát với Cam Túc ở về phía mặt Đông Nam, nên khi lật đổ Vua Trụ liền dời đô về Hàm Dương, cũng gọi là Tây An, Kiểu Kinh.
6. Hậu duệ của Kinh Dương Vương duy trì cơ nghiệp lâu dài hơn, thủ đô bấy giờ có lẽ ở giữa hai hồ: Động Đình và Phiên Dương được gọi là Đất Việt Chương. Năm 2352 trước Tây lịch Vua Hùng Vương nước ta cho sứ sang biếu Vua Nghiêu một con rùa vạn năm (Rùa Thần) và năm 1109 trước Tây lịch cho sứ sang biếu Chu Thành Vương một con Bạch Trĩ (Rùa Thần tượng Lạc Thư, Chim Bạch Trĩ là tượng Văn Hoa của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ).
7. Trong thế kỷ 12 trước Tây Lịch một người cũng họ Hùng là Hùng Dịch chiếm một phần Tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc lập ra nước Sở, sau đó tại vùng Giang nam xuất hiện nước Ngô, vùng Triết Giang xuất hiện nước Việt. Ba nước Sở, Ngô, Việt đều là tiểu quốc của nước Việt Nam lúc bấy giờ. Việc tách rời đó là do ảnh hưởng của cảnh loạn ly đang xảy ra ở miền Bắc sông Dương Tử, bị Bắc tộc lần hồi xâm nhập. Hùng Vương phải thiên đô về Lạc Việt dựng riêng một tiểu quốc tại Phong Châu, bây giờ gọi là bộ tộc Văn Lang. Việc thiên đô có lẽ thực hiện vào khoảng đầu thiên niên kỷ trước Tây lịch. Nước ta bấy giờ chỉ gồm các tiểu quốc Nam Việt (Quảng Đông) Tây Việt (Quảng Tây) và Lạc Việt là nước Việt Nam ngày nay.
Tôi muốn dẫn chứng lược sử này là để nói lên nguồn gốc của dân tộc Việt Nam cách đây gần 5000 năm đất nước ta ở về phía Nam sông Dương Tử bao gồm Kinh Châu và Dương Châu, Vua Việt Nam được Đế Minh phong là Việt Nam Vương và cũng gọi là Kinh Dương Vương vào khoảng 2879 trước Tây lịch còn Đức Phục Hi là thủy tổ của dân Lạc Việt và Kinh Dịch cũng là kinh của tổ tiên người Việt.
Ngày nay, chúng ta muốn quay về dĩ vãng xa xăm, lần dò từng bước tiến của lịch sử Việt Nam để tìm hiểu nòi giống Lạc Việt lập quốc trên nguyên lý nào? Hồn nước Việt cũng như văn hóa, chính trị kinh tế, tín ngưỡng, xã hội Việt Nam sinh hoạt phát triển theo định hướng nào? Nhà nữ văn hào Pháp Destael cho rằng: “Người ta quay lại lịch sử quá khứ xa được bao nhiêu thì có thể tiến xa về tương lai được bấy nhiêu”, chúng ta cũng đồng ý mà cho rằng: Có hiểu được cội nguồn của dân tộc, có biết được sự sáng tạo và cách thức sống của tổ tiên, có khai quật được hồn sử mới mong tìm được định hướng, vạch ra một phương châm chính xác đích thực, để xây dựng quốc gia, phụng sự dân tộc, tránh khỏi mọi sự cuốn lôi của các trào lưu tư tưởng ngoại quốc. Cây bị mất gốc cây phải chết khô, nước không hồn nước phải tiêu tán, một dân tộc quên cội nguồn lịch sử là dân tộc vong bản, dân tộc ấy dễ bị tiêu diệt, hay bị đồng hóa theo các dân tộc khác.
Về sự phát sinh đầu tiên của nòi Lạc Việt nhiều nhà cổ học, sử học đã đưa ra nhiều thuyết khác nhau, giờ đây chúng ta dựa vào những tài liệu hữu lý nhất để có thể xét đoán rằng dân tộc Việt Nam ta lúc ban sơ là con cháu Vua Phục Hi Thần Nông ở phía Nam sông Dương Tử, con sông đã phát xuất nền văn minh Dịch lý. Giống Việt này bị Hán tộc đánh đuổi chống cự không lại, nên phải di cư dần về phương Nam đến ở Lĩnh Nam. Trong bước lưu vong ấy, người Việt luôn luôn mang theo cái bảo vật vô giá, đó là Bát Quái đồ, đó là Vũ trụ nhân sinh thống nhất của người Việt. nhờ đó mà người Việt có một đức tin thờ Trời, biết tự chủ tự cường, đến đâu là phá rừng, vỡ ruộng, đào mương lấy nước, chài lưới, săn bắn để nuôi sống.
Sử chép vào cuối thời chiến quốc, người nước Tần đánh quá mạnh, nòi Việt chống cự không lại, khiến các chi trong Bách Việt như: Mân Việt, Nam Việt, Việt Đông Hải, Âu Việt v.v… bị tản mát nhiều nơi, nhiều giống Việt vị đồng hóa theo nòi Hán, chỉ còn có giống Lạc Việt đủ tư cách bảo tồn chủng tộc ở phương Nam và lập quốc tại đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc, Tỉnh Vĩnh Yên) lo mở đất khai hoang dựng thành một nước độc lập tự chủ và lưu truyền cho con cháu mãi đến ngày nay.
Theo truyền thuyết thì nước ta lập quốc từ đời Kinh Dương Vương (2879 – 258) trước Tây lịch. Theo Lĩnh Nam Trích Quái đời Trần và Đại Việt Sử Ký toàn thư của các sử gia đời Lê, nguyên Đế Minh cháu ba đời Thần Nông, tức Vua Viêm Đế, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp nàng Tiên kết duyên với nhau sanh ra Lộc Tục, Lộc Tục lên làm Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ, họ là Hồng Bàng, nước Xích Quỷ bao gồm cả Lĩnh Nam và Giang Nam (Nay thuộc Trung Quốc).
Kinh Dương Vương lấy nàng Long Nữ con Vua Động Đình rồi sinh ra Sùng Lãm, sau Sùng Lãm lên ngôi cha xưng hiệu là Lạc Long Quân. Vua Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ con gái Vua Đế Lai sinh ra được trăm trứng (100) nở ra trăm người con. Một hôm Long Quân bảo Âu Cơ rằng: Tôi là loài Rồng sinh ở nước, nàng là giống Tiên gốc ở núi vốn khắc nhau, không thể ở lâu với nhau được, nay chia cho nàng 50 con đem lên núi, còn 50 con thì theo ta xuống biển, tuy chia ra mỗi người một ngả, nhưng khi có tai nạn thì hiệp sức mà cứu giúp lẫn nhau.
Sau Lạc Long Quân phong cho con đầu làm Vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, gồm có 15 bộ tức là miền Bắc nước Việt Nam ngày nay.
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, lập ra triều nghi phân định tước vị, quan văn là Lạc Hầu, quan võ là Lạc Tướng, con trai Vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, quan nhỏ gọi là Bố Chánh. Các Vua Hùng cha truyền con nối đến 18 đời gọi là Hùng Vương. Nếu kể lên từ đời Kinh Dương Vương thì có cả thảy là 20 đời nối tiếp nhau kéo dài khoảng 2622 năm.
Theo hai tập sách kể trên, thì vào đời Hùng Vương, Văn Lang là một nước khởi đầu có phép lệ kỷ cương theo chế độ quân chủ có tổ chức quận huyện, Hùng Vương là vị Vua đầu tiên, một thủ lãnh mạnh nhất của dân tộc, có khả năng lãnh đạo, cai quản các đầu lĩnh bộ lạc trong khắp nước Văn Lang.
Đến đây, ta có thể nói rằng: Thời đại Hùng Vương hay thời đại Lạc Vương cũng thế, là một thời đại mở đầu cho lịch sử Việt Nam. Hùng Vương đã xuất hiện trên sân khấu lịch sử thời cổ đại như một nhân vật kỳ vĩ, các bộ lạc đều suy tôn, thống nhất cả một niềm sinh tụ rộng lớn là nước Văn Lang, rồi con cháu về sau thừa thế chiếm giữ lấy quyền hành kế tục. Xã hội Hùng Vương được mô tả như một xã hội “Quân dân cộng hòa” nó đang chuyển biến nhanh chóng từ trạng thái bắt đầu có tổ chức.
Đi đến sự thiết lập các cơ chế chính trị văn hóa xã hội theo nguyên lý Lạc Thư, đất nước chia ra 15 bộ bao gồm toàn lãnh thổ, con số 15 là số quân bình của ba hàng ba cột trong ma phương Lạc Thư, hay là ma phương sao Thổ. Con số 15 trong Lạc Thư là số huyền diệu.

Bài thi an số Lạc Thư:
Tứ hải tam sơn hữu bát Tiên,
Cửu long ngũ hổ nhất Tề Thiên,
Nhị quân thất tướng phò lục quốc
Thập ngũ Lạc Thư vị chi huyền.
Trong bài văn tế Quốc Tổ có câu:
“Hồng Bàng dòng quý tộc, 18 đời nối nghiệp dư đồ,
  Phong Châu đất cố đô 15 bộ bao gồm lãnh thổ”.
Con số 18 là “Pháp Số” con số của Lạc Thư, Lạc Thư có 9 số, mỗi số có một phương vị riêng, một tính chất khái niệm riêng, bản thân Lạc Thư có hai chiều thuận nghịch nên 9x2 = 18.
Ta có thể ví 18 đời Hùng Vương như 18 vị La Hán của Đạo Phật, Phật có 4 cấp tu đắc đạo:
1.    Tu Đà Hoàn.
2.    Tư Đà Hàm.
3.    A Na Hàm.
4.    La-Hán.
Hùng Vương là những vị Vua có sức mạnh phi thường, có đủ ba đức tính: Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi.
Con số 18 cũng có thể ví như 18 cái tay của Chuẩn Đề Bồ Tát, cầm mỗi tay một cái bảo pháp để cứu nhân độ thế. Chuẩn Đề là tiêu chuẩn đề ra để cứu đời (nghĩa tâm pháp) 18 bảo pháp là 18 pháp khí, vật dùng để nêu rõ ý nghĩa một lý tưởng. 18 cũng có nghĩa là xâu chuổi từ bi có 18 hạt của các bậc thiền sư dùng để luyện khí.
* Theo Dịch lý, số không (0) là Vô Cực, số 1 là biểu tượng ngôi Thái Cực, số 2 là Âm Dương, 3 là Tam Tài, 4 là Tứ Tượng, 5 là Ngũ Hành, 6 là Lục Long, 7 là Thất Tinh, 8 là Bát Quái, 9 là Cửu Cung. Từ 1 đến 9 là số tạo thành Càn Khôn Vũ trụ. Đạo Dịch có ra có vào, có lên có xuống, cho nên từ 1 đi ra đến 9. Rồi 9 phải trở về 1. Rồi 1 sẽ hóa không (0) để hoàn nguyên bản thể. Vì vậy nên lấy 9x2 = 18, hay hai lần 9 bằng 18. Chúng ta học Dịch phải định tâm mà tìm hiểu, nếu không tìm thì làm sao thấy được. Những kẻ thấy được là biết dùng Thần để tâm tìm kiếm. Các nhà Bác học về các khoa Thiên văn, Địa lý họ cũng nhờ tìm mới biết được trên Trời, dưới Đất có những vật lạ điều hay. Những nhà tu hành cũng phải gia công tu luyện mới thấy được mầu vi tạo hóa. Không phải hướng ngoại tìm những vật chất ngoài thân như những nhà Kỹ sư, Bác học, vì những vật ở ngoài thân là những vật của Trời Đất là hữu hình ảo hóa, thấy đó rồi không, có rồi lại mất, chẳng khác gì bèo mây trôi nổi, còn vật ở trong thân tâm ta là Thần Khí, là vật của ta tự hữu hằng hữu, nó trường tồn bất diệt, mà muốn tìm nó phải nương vào pháp Đạo là lấy số 9x2, vì sao nhơn 2, do đâu mà có?.
Trong vòng luân chuyển không ngừng của bánh xe tạo hóa, có hai con đường, con lên, con xuống, lên xuống là pháp đạo phi thường. Tất cả vạn hữu trong Càn Khôn Vũ trụ không một vật gì đứng ngoài vòng “Pháp luân thường chuyển”. Đó là luật biến  chuyển của Trời, mà trong sự biến chuyển không ngừng ấy lại có cái vô vi làm chủ điều khiển luật tự nhiên. Vô vi ấy là: “Chơn Thần Tạo Hóa”. Sỡ dĩ Chơn Thần không lăn quay theo sự biến chuyển ấy là nhờ nó giữ được cái “Trung”, Trung ấy là gốc “Chơn thường thanh tịnh”. Chỉ có Chơn thường thanh tịnh kia mới đem lại sự sống còn cho vạn loại mà giữ lẽ sanh tồn. Nó đem cái vui cho người đang đau khổ, đem cái sống cho người sắp liều thân, hay cho kẻ toan hại chúng. Nó làm dịu bớt ngọn lửa hận thù, hay bao lượn sóng trần đang xô xát.
Bây giờ, ta quay lại tìm ngay trong bản thân ta cũng thấy có hai số 9 đối hình, mà ta gọi là “Tiền tam tam, hậu cửu khiếu”. Mà tiền hậu là phép vận tiểu châu thiên, mỗi vòng Trời là phương cứu cánh cho bao nhiêu điển lực trong thân người trở về hiệp đồng với khối Chơn Thần ở nơi Linh Sơn Côn Đảnh. Giác Mê Ca có câu:
“Đường sau lưng bày ra trước mặt,
  Lửa không mồi cháy khắp non sông,
  Muốn cho thấy đặng Chủ Nhân Ông,
  Non vô ảnh, âu tầm mới hãn.”
Lần một hạt châu tức là nhớ đến một hơi thở, mằn ra được một khiếu trong người, đã mằn ra được thì cũng thấy được linh cơ trong Trời Đất đã chứng ngộ trong tâm ta.
Số 18 cứ nhân lên mãi cho đến khi nào có hằng hà sa số tận cho đến số Càn Khôn, rồi ta lại chia ra cho mười phương thế giới, ta lại thấy vô tận bao la, hay đem trừ đi, đơn giản lại, ta sẽ thấy số (0) và 1, và đem 1 về với không ta lại thấy là mầu nhiệm. Mầu nhiệm vì nguyên cơ của Vũ trụ là Hư Vô chi khí Vô Cực (0). Dịch nói: Vô Cực nhi Thái Cực, biểu tượng là số 1. Số 1 lại trở về số Không Vô Cực, là Hoàn nguyên bản thể.
Nhưng khi ta thấy hai con số 9, ta chưa có thể biết nó sẽ thành bài tính gì? Vì ta chưa vạch một dấu riêng của phép tính là cộng, trừ, nhân, chia (+ - x :) thì bài tính hai con số 9 cũng khó có kết quả. Người tu cũng vậy, dấu riêng của người tu là cơ truyền pháp, nghĩa là khi ta chưa biết là ta chưa đắc truyền, chừng khi đã đắc ngộ chơn truyền ta sẽ thấy nhiệm mầu của máy linh cơ tạo.
Tóm lại, con số 18 đời Hùng Vương là số Pháp luân thường chuyển của máy tạo huyền vi, là lẽ hằng còn của vạn hữu, là luật điều hòa của Vũ trụ Càn khôn, tổ tiên Việt Nam lấy con số 18 để luyện pháp hầu có đủ trí tuệ mà trị quốc, bình thiên hạ. Còn người tu hành cũng lấy xâu chuỗi 18 hạt để luyện đạo, thâu phóng tâm, khử ám hồi minh, làm cho thân tâm an lạc hài hòa, siêu phàm nhập Thánh.
Trong Đạo Cao Đài Chức Sắc đều có xâu chuỗi 18 hạt dùng để luyện khí Kim Quang, khi ngồi Thiền, luyện Châu … ngồi Thiền, luyện Châu có bài kệ như sau:
Thế giới Càn Khôn tóm một bầu
  Cao Đài danh hiệu độ năm châu
  Siêu phàm nhập thánh chơn thường lạc
  Khử ám hồi minh pháp nhiệm mầu
  Thần khí vận hành thông vạn pháp
  Thân tâm thanh tịnh đạt thanh cao.
  Cao đài niệm niệm Kim Quang hiện
  Đoạn nghiệt trừ phiền đệ nhứt châu.”
Nếu hiểu 18 đời là 18 ông Vua thì không có lý, vì tính từ đời Kinh Dương Vương nối tiếp theo cộng là 20 đời, thời gian cai trị kéo dài khoảng 2622 năm, đem chia cho 20 đời vua, mỗi đời có 131 năm để trị vì thiên hạ, xưa nay lịch sử chưa có một vị vua nào sống lâu và ở địa vị 131 năm như vậy cả. Còn con số 15 là số Trời, Đất, Người, quân bình trong một bản thể thống nhất, sẽ giải ở mục Lạc Thư sau.
Theo nhà sử học Trần Trọng Kim, lịch sử lập quốc Việt Nam là câu chuyện huyền thoại, thí dụ như: Lạc Long Quân với bà Âu Cơ lấy nhau sinh ra trăng trứng, nở ra trăm người con là chuyện khó tin, người gì lại đẻ trứng?
Nay ta hãy thành tâm khai quật dòng sử huyền thoại ấy, coi bên trong huyền sử ông cha ta gởi gấm hay cất dấu những bí mật gì? Như danh hiệu:
- Đế Minh với Nàng Tiên.
- Kinh Dương Vương với Long Nữ.
- Lạc Long Quân với Âu Cơ?

II. HUYỀN LÝ LẬP QUỐC CỦA VIỆT NAM:
Chúng ta nên hiểu huyền thoại là câu chuyện huyền diệu chứa đựng bên trong cái ẩn ý mầu nhiệm sâu xa, chứ không phải câu chuyện đơn thuần.
Cái cốt lõi của ba cặp vợ chồng đầu tiên lập quốc Việt Nam là căn cứ vào Bát Quái mà tác thành. Dịch có tám quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Càn Khôn là tượng Trời Đất, Chấn, Khảm, Cấn là tượng ba trai, Chấn trưởng nam, Khảm trung nam, Cấn thiếu nam.
Tốn, Ly, Đoài là tượng ba gái, Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, và Đoài thiếu nữ.
Tổ tiên ta tinh thông Dịch quái, vì Dịch là truyền thống của dân tộc, các Ngài nắm vững nguyên lý âm dương thăng giáng ngũ hành biến hóa, căn cứ theo định luật thiên diễn, âm dương tương phản, tương thành, ngũ hành tương khắc, tương sanh, phối hợp 6 quẻ trên theo quy luật âm dương sanh hóa, mâu thuẫn mà thống nhất.
- Đế Minh với nàng Tiên là tượng quẻ Chấn + Tốn.
- Kinh Dương Vương với Long Nữ là tượng Cấn + Đoài.
- Lạc Long Quân với Âu Cơ là tượng Khảm + Ly.
Trong ba cặp vợ chồng này gặp nhau đều được phúc đức, phúc đức là thông điệp, là thánh chỉ của Tổ Tiên ta gửi lại cho con cháu. Người dân có phúc đức là người có phúc lành và đức hạnh tốt, người Việt Nam trên phương diện xử thế thường truyền miệng cho nhau: Dĩ đức hóa nhân, dĩ ân báo oán, có lẽ cũng do truyền thống ông cha ta lưu lại từ ngàn xưa. Một dân tộc có đạo đức là dân tộc biết thờ Trời kính Phật, tôn trọng tự do tín ngưởng của mọi người, một dân tộc biết có xác thịt, có linh hồn, biết có cõi u, cõi minh, biết trọng cương thường luân lý, xử sự tiếp vật theo đúng nhân nghĩa, phải biết tôn trọng nhân phẩm, nhân quyền.
Nhờ hai chữ phúc đức, Tổ tiên ta đã truyền lại mà nước Việt Nam ta ngày nay có đủ linh khí của Đất Trời quy tụ, nên Thượng Đế mới dùng Huyền Diệu cơ bút giáng thế lập nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài.
Người Việt Nam không có gia đình nào là không muốn hưởng phúc đức, phúc có ngũ phúc: Phúc, Lộc, Thọ, Khương, Ninh; muốn hưởng phúc tất phải vâng lời dạy của Tổ tiên, phải biết thờ Bát Quái (Thờ Trời), vì đấy là đỉnh cao của nhân loại.
Dưới đây, ta hãy tìm hiểu tính lý cảm ứng của 6 quẻ mà ông cha ta đã ghép lại với nhau thành vợ chồng là Chấn với Tốn, Ly với Khảm, Cấn với Đoài.
Dịch nói: Khích động vạn vật không gì nhanh bằng Sấm, làm rối loạn vạn vật không gì nhanh bằng gió.
“Động vạn vật giả mạc tật hồ Lôi, nhiễu vạn vật giả, mạc tật hồ Phong” (Chấn + Tốn).
 - Làm khô vạn vật không gì hơn Lửa.
- Nhuần vạn vật không gì hơn Nước.
(Táo vạn vật giả, mạc tật hồ Hỏa, nhuận vạn vật giả mạc tật hồ Thủy (Thủy + Hỏa).
 
- Làm tươi vui vạn vật không gì bằng Đầm ao.
- Chung kết vạn vật cũng như mở đầu vạn vật không gì bằng Cấn.
(Duyệt vạn vật giả mạc duyệt hồ Trạch, chung vạn vật, thủy vạn vật giả, mạc thạnh hồ Cấn) (Đoài + Cấn ).
 
 Cho nên nước lửa theo bắt nhau (Khảm Ly) sấm gió (Chấn Tốn), chẳng trái nhau, Núi đầm (Cấn Đoài) thông khí, nhiên hậu mới có thể biến hóa để hình thành vạn vật.
“Cố Thủy Hỏa tương đãi, Lôi Phong bất tương bội, Sơn Trạch thông khí, nhiêu hậu năng biến hóa, ký thành vạn vật dã”.

 Đế Minh Vua tổ đầu tiên của Việt Nam quán triệt quy luật Âm Dương ngũ hành nên mới đặt danh hiệu ngài là Đế Minh và vợ ngài là Nàng Tiên (vô danh). Đế Minh có nghĩa là vị Hoàng Đế rất sáng suốt, nó còn biểu hiện ra bảy thể. Đế là Ngũ Đế: Đông Phương Thanh Đế, Tây Phương Bạch Đế, Nam Phương Xích Đế, Bắc Phương Hắc Đế, Trung ương Hoàng Đế, mà Đế cũng là năm hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Minh là hai chữ Nhựt Nguyệt ghép lại.
Nàng Tiên là biểu tượng địa cầu trong sạch.
Vậy gia đình Đế Minh gồm có cả thảy là 8 hiện tượng. Mặt trời, mặt trăng, địa cầu và 5 hành tinh, hay là Bát Quái đồ của Đạo Dịch.
Thánh ý Đế Minh muốn dạy cho dân tộc Việt Nam mạch nguồn lập quốc là dựa vào Bát Quái đồ, dựa vào khí vận của Trời Đất, và sự tương quan với thái dương hệ - đó là chân tướng của dân tộc, là nguồn gốc sâu xa của nền văn hóa Việt Nam.
Dưới đây là gia đình Đế Minh có tương quan với Bát Quái và Thái Dương hệ.
 
  Gia đình Đế Minh                          Bát Quái                     Thái Dương hệ
1. Trời                                              Càn                                Mặt trời
2. Đất                                               Khôn                             Địa cầu
3. Đế Minh                                      Chấn                             Sao Mộc
4. Nàng Tiên                                    Tốn                               Sao Kim
5. Kinh Dương Vương                    Cấn                                Sao Thổ
6. Long Nữ                                      Đoài                              Mặt trăng
7. Lạc Long Quân                           Khảm                            Sao Thủy
8. Âu Cơ                                          Ly                                  Sao Hỏa
Khái quát về sự vận hành của Thái Dương hệ.
Trái đất quay xung quanh mặt Trời là 365 1/4 ngày.
Sao Thủy                                  88 ngày
Sao Kim                                    225 ngày
Sao Hỏa                                    587 ngày
Sao Mộc                                   12 năm
Sao Thổ                                    30 năm
Mặt Trăng là hộ tinh chạy xung quanh trái đất là 29 ngày hơn. Tại sao Tổ Tiên ta muốn ghép gia đình Đế Minh vào trong Thái Dương hệ để làm nguyên lý lập quốc cho dân tộc Việt Nam? Vì trong Thái Dương hệ mặt Trời là ngôi định tinh có đủ năng lực hấp dẫn chi phối các hành tinh vận hành trong hệ thống một cách trật tự, điều hòa, ổn định vĩnh cửu, cái lý thiên nhân tương dữ, trời với người không thể xa cách nhau, nhân sự không thể hành động trái với thiên cơ, ông cha chúng ta muốn chúng ta hành động theo nhịp điệu thiên lý lưu hành, vạn sanh chung sống, đừng trái nghịch với luật Trời đất mà bị hại.
Thử hỏi tại sao các hành tinh ở xa địa cầu lại ảnh hưởng đến đời sống con người được? Sao hạn có tác hại gì đến con người? Tại sao mặt trăng có ảnh hưởng đến nước thủy triều lên xuống hoặc chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ?
Ta hãy lấy trái đất ta đang sống làm ví dụ:
Trái đất quay quanh trục của nó với tốc độ 1600 cây số 1 giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó quay chậm lại 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 lần, và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp 10 lần, thế thì vạn vật trên trái đất này đều bị thiêu cháy hết chẳng còn gì. Nếu đêm đến sức lạnh cũng tăng gấp 10 lần, thì liệu có còn vật gì sống được không?
Ai đã làm cho trái đất quay với điều kiện tốt đẹp như vậy. Mặt Trời là nguồn sống của trái đất, mặt trời nóng độ 5500 độ bách phân, quả đất đặt ở vị trí tốt đẹp không quá xa, cũng không quá gần, vừa đủ để hứng nhận sức nóng của mặt Trời. Nếu sức nóng của mặt Trời gia tăng một chút, ta sẽ bị chết thiêu, ngược lại nếu sức nóng mặt Trời giảm đi, ta sẽ bị chết rét. Ai đem đặt trái đất nằm ở vị trí thuận lợi để vạn vật chúng sanh được sống và tồn tại đến ngày nay. Suy ra, các hành tinh kia không có điều kiện để loài người sống, nhưng nó cũng tương quan liên hệ hổ tương với địa cầu như ngũ hành vậy.
Tuy quỹ đạo và thời gian vận hành có khác nhau, nhưng nó vẫn giữ được quy luật hấp dẫn và tương tác giữa nhau làm cho hệ mặt trời tồn tại vĩnh viễn.
Trục trái đất nghiêng theo một góc 23 độ, nếu trái đất đứng thẳng không nghiêng theo bên nào thì sẽ không có thời tiết bốn mùa, nước sẽ bốc hơi hết, và hai cực đông thành băng giá.
Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất, điều khiển thủy triều biển cả, nếu nó không cách xa trái đất 380.000 cây số, mà xích lại gần hơn độ 80.000 cây số thì một cuộc đại hồng thủy sẽ xảy ra, nước bị sức hút của mặt trăng dâng lên ngập tất cả các lục địa mỗi ngày một hai lần.
Tóm lại, tất cả mọi đời sống trên địa cầu trong chốc lát biến mất nếu các qui luật của các hành tinh nằm trong hệ mặt Trời sai lệch đi.
Ngày nay lý trí khoa học của con người tự cao tự đại muốn làm Trời cải tạo địa cầu và Vũ trụ, làm đảo lộn cả nền luân lý đức tin, làm rối loạn trật tự Vũ trụ, từ vật thực đến không khí, nước uống, ánh sáng, không còn trong sạch tự nhiên, sự sống của loài người trên mặt địa cầu bị đe dọa trầm trọng, địa cầu cứ tiếp tục bị khai thác tài nguyên, mà không nghĩ đến cách bồi dưỡng thì địa cầu sẽ bị bệnh nặng, và đến một ngày nào đó cũng phải bị chết thôi.
Hãy quan sát Vũ trụ bằng tâm linh, dẹp bỏ các thành kiến sẵn có, và sự ỷ lại của khoa học thực nghiệm, rồi sẽ thấy tất cả Vũ trụ đều diễn ra trong một trật tự điều hòa, thiện mỹ.
Lý trí khoa học chỉ giúp cho đời sống con người hưởng thụ tiện nghi về mặt vật chất, về phần xác thịt, mà phần tâm hồn bị ốm yếu nghèo nàn, đen tối. Chỉ khi nào chúng ta đạt đến trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn, chúng ta mới ý thức được các luật huyền bí của Vũ trụ và sự nhỏ bé của con người.
Khi chúng ta thoát khỏi sự vô minh của lý trí, khai mở được tâm linh, ta mới có tự do an lạc, hòa bình, vì ta đã hòa nhập được với Thượng-Đế với chúng sanh, chừng đó ta mới nhận thức ra rằng: Vũ Trụ này là một công trình sáng tạo của Thượng Đế mà người Việt Nam gọi bằng Ông Trời.
Theo Đạo Dịch, thì con người có hai chỗ đứng để nhìn, quan sát, tìm hiểu Vũ trù: 1 là biến dịch, 2 là bất dịch.
“Từ trong biến dịch nhìn ra thì Đất Trời phút chốc đã qua”
“Từ trong bất biến nhìn ra, khắp trong vạn vật với ta vô cùng”.
Tự kỳ biến giả nhi quan chi, tắc Thiên Địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn.
Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi, tắc vạn vật dữ ngã giai vô tận dã.

III. GIA ĐÌNH ĐẾ MINH TƯƠNG ỨNG VỚI BÁT QUÁI:
A. DANH HIỆU ĐẾ MINH VỚI NÀNG TIÊN:
Đế Minh là tượng quẻ Chấn lấy Nàng Tiên là tượng quẻ Tốn. Chấn Tốn tuy hai quẻ mà cùng chung một mệnh hành, ấy là Hành Mộc. Chấn vi Lôi là Sấm, Tốn vi Phong là gió. Sấm và Gió là hai thể vô hình cảm ứng với nhau phát sinh tiếng nổ, cũng ám chỉ cho ngôi Thần và ngôi Khí cùng ở chung trong thân thể con người, cũng như khí âm và khí dương cùng hoạt động trong vòng Vô Cực.
Dịch nói: Đế xuất hồ Chấn, Tề hồ Tốn, tương kiến hồ Ly, chí dịch hồ Khôn, duyệt hồ Đoài, chiến hồ Càn, lạo hồ Khảm, thành hồ Cấn.
 
Nghĩa là ngôi Đế xuất sanh ở Chấn, hòa đồng ở Tốn, gặp nhau ở Ly, hành động ở Khôn, vui lòng ở Đoài, chiến đấu ở Càn, ủy lạo ở Khảm, hoàn thành ở Cấn.
Bắt đầu khởi từ Chấn ở Đông phương và hoàn thành ở Cấn tại Đông Bắc. Vạn vật xuất ở Chấn bởi vì Đế là “Thần Chủ Tể” của vạn vật, Đế là khí vượng của Trời, gặp tiết Xuân Phân Chấn Đế vượng nên vạn vật phát sinh, sang tiết Lập Hạ Tốn vượng nên vạn vật đều tu sửa để hòa đồng. Qua tiết Hạ Chí, Ly vượng nên vạn vật đều gặp nhau đến tiết Lập Thu Khôn vượng nên vạn vật đều được nuôi dưỡng, sang tiết Thu Phân Đoài vượng nên vạn vật đều được vui vẻ. Qua tiết Lập Đông Càn vượng nên âm dương chống nhau, đến tiết Đông Chí Khảm vượng, nên vạn vật đều về chỗ sở quy. Rồi đến tiết Lập Xuân Cấn vượng nên vạn vật đến chỗ hoàn thành, chung cũng như thủy vậy.
Cái Đế vượng ấy chính là khí Âm Dương và ngũ hành vận động chu hành trong Vũ trụ để chỉ huy điều hành mọi cuộc sanh thành biến hóa của Trời Đất, Đạo gọi là Khí sanh quang hay khí Hạo nhiên.
Chấn là tiếng sấm nổ, tiếng “Um” của Đạo Phật tiếng nổ phát sinh ra Vũ trụ, các nhà khoa học cũng chứng minh rằng Vũ Trụ thành hình đầu tiên cũng do bởi tiếng nổ. Các nhà Đạo học cũng công nhận tiếng nổ phát ra trí tuệ, tiếng nổ trong hòn đá phát sinh ra Tề Thiên Đại Thánh, người tu hành khi luyện Đạo, âm dương trong người hiệp nhất, Thủy Hỏa được Ký Tế, vòng Tiểu Châu Thiên vận chuyển được giáp mối, người ta gọi “là Rắn cắn đuôi” thì sẽ có tiếng sấm nổ bên trong bộ đầu ấy là trí huệ hoát khai, mở huệ nhãn, trong Bảo Pháp Đàn Kinh do Đạo Sư Bùi Hà Thanh luận giảng có câu:
            “Âm dương vừa mới giao hòa,
  Bổng nghe tiếng sấm Tiên gia giáng phàm.
     Trong có cuộc tuần hoàn chuyển động,
      Ba hồi chuông tiếng trống bên lầu
            Tay ôm phong nguyệt một bầu …!”
  Tốn là gió, là không khí chuyển động, Tề là bằng nhau, là bình đẳng, ai ai cũng được quyền hít thở không khí như nhau cho nên nói bằng nhau ở Tốn (Tề hồ Tốn), Đế Minh lấy nàng Tiên là tượng Chấn trưởng nam lấy Tốn trưởng nữ, hai quẻ Chấn và Tốn gặp nhau được “phúc đức” căn cứ theo dịch biến bảy hào trong cung Bát Trạch:
Cung Chấn, nhứt biến thượng thành cung Ly được sanh khí.
Nhì biến trung thành cung Càn giao chiến, ngũ quỷ.
Tam biến hạ thành cung Tốn được phúc đức.
Nam Chấn lấy nữ Tốn được phúc đức.
Muốn có phúc đức phải biết tu phước, làm nhân, làm thiện đó là mục đích đầu tiên của Vua Đế Minh với nàng Tiên hiệp nhau thành đôi lứa. Kinh Dương Vương với Long Nữ, Lạc Long Quân với Âu Cơ phối hiệp nhau cũng đều được phúc đức.
 Quẻ Chấn tượng quẻ một hào sơ quẻ Càn giao hoán với hào sơ quẻ Khôn, thay hào sơ quẻ Khôn thành Chấn, nên gọi là trưởng nam.
Soán từ: Chấn hanh, Chấn lai khích khích, tiếu ngôn hách hách, Chấn kinh bách lý, bất táng chủy sưởng.
Khích khích là nom nớp lo sợ, hách hách là cười sằn sặc, cười to tiếng, Chấn lai khích khích, tiếu ngôn hách hách nghĩa là trước thời sấm sét biết đề phòng cẩn thận, biết kính sợ tu tỉnh, khi có sấm sét đến vẫn bình yên, nói cười vui vẻ.
Chủy sưởng: Chủy là cái thìa, Sưởng là rượu nếp để cúng. Chấn kinh bách tánh, bất tán chủy sưởng nghĩa là khi tiếng sấm nổ vang xa trăm dặm, vẫn bình tỉnh không run sợ, ví như người đang tế lễ, không giật mình làm rớt đồ tế phẩm. Ý nghĩa câu ngày: Dịch cốt dạy người ta gặp thời Chấn động bốn phương mà mình biết lo xa, đề phòng trước, tinh thần biết tu tỉnh cẩn thận, thì dù có oai trời sấm sét, hay loạn lạc khắp nơi, nhưng phúc cũng sẽ đến, mọi việc đều được hanh thông.
QUẺ TỐN thể quẻ hai hào dương ở trên, một hào âm ở dưới, nhị dương chế phục được nhất âm, khiến nên nhất âm phải phục tùng nhị dương, Tốn là phong là thuận nhập thuận theo ý trên, qua lại lên xuống đều thuận cả.
Soán từ: Tốn tiểu hanh, lợi hữu du vãng, lợi kiến đại nhơn.

 Quẻ Tốn có đức nhu thuận, nhưng vì âm nhu dụng sự nên không được đại hanh, mà chỉ được tiểu hanh mà thôi. Hữu du vãng lợi kiến đại nhân nghĩa là sự việc muốn tiến hành thì phải kén chọn bậc đại nhân và trọn tin vào người ấy.
Chấn và Tốn kết hợp với nhau thành quẻ “Lôi phong hằng”. Sấm và gió giúp thế lực cho nhau, đó là lôi phong tương dữ, Tốn có tính thuận, Chấn có tính động, trước Tốn sau Chấn, tức là thuận với đạo lý mà động nên được trường cửu. Sấm gặp gió có khác nào Rồng mây gặp hội thì hạnh ngộ biết chừng nào.
Soán từ: Hằng hanh, vô cựu, lợi trinh, lợi hữu du vãng.
 Soán từ: Lời giải thích tóm tắt. Chữ Hằng nghĩa là lâu dài hằng cửu, bất biến, vô sanh tử, trên đời chỉ có chân lý đạo là hữu thường, không thay đổi là hằng cửu, như thế mới được hanh thông, không tội lỗi (Hanh, vô cựu).
Hằng cửu nhờ theo một đạo lý trinh chính nên gọi là Lợi trinh, Hằng cửu theo cách quân tử thì có tiến hành việc gì cũng chắc thành công. (Lợi hữu du vãng).
Dưới đây là Thánh nhân giải thích chữ Hằng cửu.
-         Nhựt nguyệt đắc Thiên nhi năng cửu chiếu.
-         Tứ thời biến hóa nhi năng cửu thành.
-         Thánh nhân cửu ư kỳ đạo, nhi thiên hạ hóa thành.
Quan kỳ sở Hằng nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỷ.
 Dịch: “Mặt trời, mặt trăng cứ thuận theo lý thiên nhiên mà soi chiếu không bao giờ cùng.
- Bốn mùa biến hóa luôn luôn, mùa đông lạnh lẽo, sang xuân ấm áp, Xuân đổi sang hạ nóng bức, Hạ đổi sang thu mát mẻ, Thu lại sang đông lạnh lẽo, bốn mùa nhờ có biến hóa của âm dương mà được lâu dài, đó là phần thiên đạo.
- Thánh nhân cũng noi theo đạo nhựt nguyệt, tứ thời mà hành đạo hằng cửu, nên thành công trong việc cảm hóa thiên hạ, nhờ đó mà thiên hạ làm nên văn hóa tốt.
- Xem ở đạo Hằng có thể thấy được cái tình của Trời Đất vạn vật. Đây là giảng đến cùng cực đạo Hằng.
Người tu theo đạo Hằng là giữ tánh mạng hằng bất biến là giữ được linh hồn bất tử của mình.
Tượng viết: Lôi phong Hằng quân tử dĩ lập bất dịch phương.
 Đạo Hằng của người quân tử là lập vị ở Trung ương, không xê dịch theo phương nào.
Đạo Đế Minh lấy tiêu chuẩn quẻ Hằng để lập quốc, thâm ý của Thánh nhân muốn truyền lại cho dân tộc Việt Nam, nuôi giữ lấy một lý tưởng hằng cửu trường tồn bất biến, trước mọi đổi thay thăng trầm của lịch sử, của nhân tình thế thái, và luôn luôn xây dựng cho tổ quốc Việt Nam một lập trường TRUNG HÒA độc đáo. TRUNG HÒA LÀ GÌ?
“Trung giả dã, thiên hạ chi đại bản dã.
  Hòa giả dã, thiên hạ chi đạt đạo dã.”
 Giải nghĩa: Trung là nguồn gốc lớn của thiên hạ.
                    Hòa là mục đích tiến hành để đạt đạo.
 
B. KINH DƯƠNG VƯƠNG + LONG NỮ TƯỢNG CẤN – ĐOÀI
Theo nguyên lý Đạo Dịch có âm thì phải có dương, có sấp thì phải có ngửa, có Dịch thì phải có phản dịch. Các hiện tượng trong Trời đất đều có từng cặp đối lập lẫn nhau.



Đế Minh với Nàng Tiên là tượng quẻ Chấn và Tốn, hai quẻ đều hướng thượng, xuất thế. Nay ta lật ngược quẻ Chấn thành quẻ Cấn, lật ngược quẻ Tốn thanh quẻ Đoài. Kinh Dương Vương là tượng Cấn, Nàng Long Nữ vợ Kinh Dương Vương là tượng Đoài. CẤN VI SƠN là tượng núi, Dịch nói: “Cấn giả chỉ dã”.
 Chỉ là yên lặng, ngưng nghỉ.
Soán từ: Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình bất kiến kỳ nhân, vô cựu.
 Cấn là chỉ, chỉ ở sau lưng, vì ở đàng sau lưng mình không thấy được, đi ở trước sân mà không thấy người ta, như thế là không lỗi. Thích nghĩa đen như vậy thật khó hiểu. Câu này ý Thánh nhân muốn dạy cho chúng ta đạo Cấn là Đạo tu tịnh . CẤN chỉ nghĩa là ngưng nghỉ, là dừng lại, nhưng dừng lại ở đâu? Ở nơi chí thiện “chỉ ư chí thiện” chí thiện là trọn lành. Cấn kỳ bối là chỉ ở nơi cái lưng, tại sao Thánh nhân lấy cái lưng làm chỗ ngưng nghỉ? Vì cái lưng ở trong thân ta, mà ta không hề thấy được, cái lưng là mạch Đốc nơi khí lưu hành, trước bụng là mạch Nhâm là nơi lưu huyết. Khí thì ta không thấy, nhưng khí rất quan trọng cho sự sống, hễ người tuyệt khí là phải chết, cho nên soán từ nói: Hành kỳ đình bất kiến kỳ nhân, nghĩa là đi trước sân mà không thấy có người, ý nói khi người đạt được Đạo Cấn, ngồi thiền định tĩnh lặng được rồi thì thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe (Thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn) không thấy có ta mà cũng không thấy có người, ta và người hòa đồng trong một bản thể (vô ngã tướng, vô nhân lướng, vô ngã lưỡng vong, nhất khối thiên lý) chúng ta học Dịch không phải câu chấp chữ nghĩa mà phải tìm cho ra vi ý của Thánh nhân mới thấu tình đạt lý, có chứng được lý thì tâm mới chứng đắc.
Vua Kinh Dương Vương nhờ đạt được đạo Cấn, Ngài mới sáng suốt, tạo dựng một công trình vĩ đại lập quốc an dân, trị nước cứu đời. Ngài có bộ óc kinh bang tế thế rất phi thường, Kinh không phải là họ Kinh mà là Đạo thường Hằng không thể biến đổi, người ta thường nói: Chấp kinh quyền biến, hay dĩ bất biến trị vạn biến, cái biến và bất biến ở đây là nói: Hà Đồ và Lạc Thơ. Kinh còn có nghĩa là đường dọc, Lạc là đường ngang như ở địa cầu người ta chia kinh tuyến và vĩ tuyến. Kinh Dương Vương lấy Đạo Cấn làm thành quả (thành hồ Cấn) nhờ buổi đầu khai thông kinh lạc cho nên đất nước mới được Hanh – Lợi – Trinh.
Nàng Long Nữ tượng quẻ Đoài
Đoài hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở phía ngoài, tượng là trong lòng chân thật, ngoài mặt thì nhu hòa vui vẻ, trong cương ngoài nhu. Dịch nói: Đoài duyệt lợi ư chính, nghĩa là Đoài duyệt một cách tốt đẹp vì hợp với đạo Trinh Chính.
 Soán truyện: Đoài duyệt dã, cương trung nhi nhu ngoại, duyệt dĩ Lợi trinh, thị dĩ thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân, duyệt dĩ tiễn dân, dân vong kỳ lao, duyệt dĩ phạm nạn, dân vong kỳ tử.
 Dịch nghĩa: Đoài duyệt như vậy, trong cứng ngoài mềm, duyệt lợi với chính đạo, trên thì hợp với lòng Trời, dưới thuận với lòng người, lấy cách duyệt ấy mà dìu dắt dân, tất nhiên bảo gì dân cũng vui lòng làm theo mà quên đi sự khó nhọc, lấy cách duyệt ấy mà bảo dân vào nơi hiểm nạn, thì dân cũng vui lòng mà quên sự chết.
Tinh thần Đoài duyệt đến thế thì lợi biết chừng nào.
Kinh Dương Vương con của nàng Tiên thuộc nòi Tiên, Long Nữ là cô gái Rồng thuộc loài Rồng, Vật tổ Việt Nam lấy hiệu Rồng Tiên có lẽ bắt nguồn từ đó. Theo truyền sử cổ sơ thì đức Phục Hi thủy tổ của nòi Lạc Việt cũng có mình Rồng.
Kinh Dương Vương chàng trai ở núi, tượng Thiếu dương ra công khai kinh xuống đến Động Đình Hồ để kết duyên với nàng Long Nữ tượng thiếu âm, đây là cặp vợ chồng Hậu Thiên, nam nữ hôn phối với nhau, tình cảm giữa nam nữ thắm thiết với nhau không chi bằng.
Quẻ Cấn thuộc dương Thổ, quẻ Đoài thuộc âm Kim, hai hành Thổ Kim tương sanh, theo cung mạng cũng được PHÚC ĐỨC.
Âm Dương giao biến là luật của Trời đất, nhưng sự giao dịch biến hóa ấy phải theo một chu trình nhất định của thiên nhiên, trong đó bao hàm cả thuyết tương đối, cảm ứng, hấp dẫn, tương phản, tương thôi, tương thành.
Cấn và Đoài tương hợp thành quẻ Trạch Sơn Hàm. Hàm là Đức của Kinh Dương Vương và Long Nữ.
Soán từ: Hàm, Hanh, Lợi Trinh, Thú Nữ, Kiết.
 Hàm nghĩa là cảm, tình người tương cảm nhau không gì thân thiết hơn nam nữ, quẻ này thiếu nam cảm với thiếu nữ không gì thân mật bằng, tình cảm này nếu suy rộng ra thì từ gia đình, đến quốc gia, xã hội, nhân loại, đâu đâu cũng cảm ứng thân thiết với nhau như thế, tất nhiên thảy được hanh thông, nên gọi là Hàm hanh.
Lợi trinh nghĩa là cảm tắc thông, nhưng tất phải cảm cho chính, nếu biết theo đạo trinh chính ấy mà giao cảm nhau, theo lối ấy mà cưới con gái làm vợ thì chắc được tốt đẹp (Lợi Trinh, Thú Nữ Kiết). Kinh Dương Vương với nàng Long Nữ là tượng thiếu nam thiếu nữ cảm tình nhau, thương yêu thân thiết không gì bằng.
Luật cảm ứng bao trùm cả Trời Đất.
Thiên địa cảm nhi vạn vật hóa sanh, Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hòa bình.
 Trời đất luôn luôn có sự cảm ứng với nhau rất mật thiết, Trời lấy khí dương mà hạ cảm với Đất, Đất lấy khí âm mà thượng cảm với Trời, âm dương giao cảm với nhau mà vạn vật thảy được hóa sinh, Thánh nhân phát triển đạo nhân chính, cảm động được lòng người thì thiên hạ được hưởng hòa bình.
Kinh Dương Vương và Long Nữ biết áp dụng Đạo Hàm và cảm hóa được lòng dân, qui phục được nhân tâm, tập trung được sức mạnh của một trăm thứ Việt (Bách Việt) để xây dựng đất nước từ buổi đầu lập quốc. Ngày nay người làm chính trị phải học theo Đạo Hàm mà cai trị dân mới mong có hòa bình hạnh phúc.

C. LẠC LONG QUÂN VÀ BÀ ÂU CƠ:
Lạc Long Quân là tượng quẻ Khảm – Khảm là Nước.
Bà Âu Cơ là tượng quẻ Ly – Ly là Lửa.
Khảm , theo thể quẻ, trên dưới hai hào âm, một hào dương ở chính giữa, một dương bị hảm vào hai âm, nên lấy nghĩa Khảm là Hãm. Lại một nghĩa nữa, Khảm là Nước, không gì sâu bằng nước, nên Khảm cũng là Hiểm.
Soán từ: Khảm hữu phu, duy tâm hanh, Hành hữu thượng.
 Khảm tuy là bị hảm, nguy hiểm, nhưng có lòng tin thật (Hữu phu) có nhất dương ở chính giữa là tượng cho lòng trung thực chí thành (dương vi thực) chính giữa là tâm người ta, tâm đã có lòng trung thực, tuy ở vào thời nguy hiểm mà lòng mình vẫn hanh thông. Lòng trung thực của mình tới đâu, cảm động tới đó, chẳng những không lo gì hiểm nạn, mà tiến lên sẽ thành công, được người ta mến chuộng (hành hữu thượng).
Thời của quẻ Khảm ví như hạt đậu, trong ruột có chứa một mầm sống (germe) mầm này bị hảm giữa hai kháp và vỏ đậu. Nếu hạt đậu gặp thời được người ta đem gieo xuống đất, hội đủ nhân duyên, đất, nước không khí và ánh sáng, mầm đậu sẽ nứt ra, phá tan kháp đậu và vỏ bọc ngoài để vươn lên, bây giờ thịt đậu trở lại làm phân nuôi cây đậu mới nứt mầm. Tuy mầm đậu lúc chưa nứt bị hai kháp đậu chèn ép, vỏ đậu vây hảm mà mầm sống của đậu được bảo tồn, và khi mới nảy mầm, rễ đậu có dịp thử thách, đủ sức mạnh phá tan kháp đậu và vỏ bọc ngoài trước khi châm rễ vào đất.
Khảm bị hảm mà được hanh thông kết quả, là nhờ có tâm trung thực, một hào dương ở giữa hai hào âm nên nói duy tâm hanh, Thánh nhân chỉ dùng vài chữ quá ư đơn giản, mà ý nghĩa hết sức thâm viễn. Khảm là Nước, là hành Thủy, là một thế lực trong năm hành. Nước bắt nguồn từ trong lòng đất, trong rễ cây, trong hốc đá, liên kết nhau thành khe, thành suối, tìm đường xoi mương, xẻ lạch, vượt thác băng ghềnh, chảy ra sông, rồi sông tìm đường về nơi biển cả, là nơi đại đồng của nước. Ở đây nước được tự do vùng vẫy, không còn bị hảm  nơi núi rừng, khe, lạch, sông ngòi; tính khí của nước, thấm nhuần vạn vật, trôi chảy mãi không ngừng. Nhưng cái tác dụng của nước không phải tự mãn có bao nhiêu công trình đó, mà nước phải bốc hơi làm mây, để rồi mưa xuống, tắm gội mát mẻ cho cỏ cây vạn vật. Thế thì nước phải cần có sức nóng mặt Trời (lửa) chiếu xuống, nước mới bốc hơi bay lên không trung tụ lại thành mây, mây gặp lạnh mưa xuống rửa sạch bụi trần, tưới muôn ngàn cỏ cây xanh tốt, nước thấm nhuần vạn vật, nuôi sống muôn loài. Thế thì nước phải cần có lửa mới trở nên diệu dụng, mâu thuẫn và hổ tương là luật của ngũ hành.
Nước đối với thân người là tinh ba là Thận thủy, chỗ chơn tánh bị chìm đắm nơi bể dục, nay biết tu luyện tâm pháp, biết đào mương xoi lạch dẫn nước về nơi nguồn cội, nguồn cội đây là nơi bộ đầu, nơi huyệt Bách Hội, nơi chư dương sở tụ. Người luyện đạo biết diều thần vận khí, hành huyết, chuyển tinh, đem khí về nơi Côn Đảnh để nuôi Thần càng ngày thêm sáng suốt. Ấy là Pháp “Tam gia tương đắc, ngũ khí triều nguyên” là công dụng cuối cùng của sự nghịch chuyển đường đi trở về nguồn cội của con người.
Thuận chuyển và nghịch chuyển ví như chữ thập Thiên Can:
Thuận: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Nghịch: Quý, Nhâm, Tân, Canh, Kỷ, Mậu, Đinh, Bính, Ất, Giáp.
Giáp là giáp mối vòng Tiểu Châu Thiên, tròn đầy chân lý Đạo.
* Quẻ LY: Ly là lửa là sáng suốt, là mặt Trời mà cũng là tượng bà Âu Cơ. Dịch nói: Tương kiến hồ Ly, thấy nhau ở quẻ Ly. Người sáng suốt là người biết mình, biết người thấy bên trong tâm cũng như bên ngoài tức là lưỡng quan, sách Phật nói: Kiến tánh thành Phật, sáng suốt được như vậy thì Ly sẽ được Lợi Trinh, Hanh. 
Soán từ: Ly, Lợi, Trinh, Hanh, Súc tẩn ngưu, kiết.



Vì sao soán từ có thêm Súc tẩn Ngưu làm nghĩa làm sao? Súc tẩn Ngưu nghĩa đen là nuôi con trâu cái. Thánh nhân mượn ẩn từ nuôi Trâu cái để nói lên ý nghĩa gì? Con Trâu cái là chỉ cho lý Thuần âm, Trâu thì ưa ngâm mình dưới nước mà nước là Khảm, ý nói Ly và Khảm không thể rời nhau. Sự sáng suốt phải đủ hai khí âm dương hòa hiệp, cũng như hai dòng điện âm dương cùng đi song song, gặp nhau ở điểm trung hòa mới phát ra ánh sáng. Thiền học mượn con Trâu vẽ ra Thập Ngưu đồ để tu học, hay Lão Tử cỡi Trâu xanh, Lão Tử là Thần, con Trâu tượng Khí, sách tu đơn có câu: Dĩ Hỏa chế Tinh, dĩ Thần kỵ Khí, con người muốn được sáng suốt là Thần Khí phải giao hòa. Quẻ Ly muốn được sáng suốt, Lợi, Trinh, Hanh phải Súc tẩn Ngưu là vậy. Cũng như quẻ thuần Khôn muốn được có bốn đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh như Càn thì phải tẩn Mã chi trinh, tẩn Mã là con ngựa cái, ý nói cái đức Trinh của Khôn như con ngựa cái. Trong bức Long Mã Hà Đồ cổ nhân vẽ con Long Mã đầu Rồng mình Ngựa, Rồng là tượng khí dương (không gian), Ngựa là tượng khí âm (thời gian), thời gian phối hợp với không gian để sanh hóa vạn vật. Đạo Càn của Trời tạo sanh ra muôn vật ấy là phần khí, Đạo Khôn của Đất thừa tiếp Trời mà dưỡng thành vạn vật ấy là phần hình thể. Con ngựa cái đi theo con ngựa đực, cũng như Khôn luôn luôn theo Càn, ấy là cái đức thuận của Khôn vậy.
Như ta đã thấy ánh sáng mặt trời dựa vào trái đất mới hanh thông, trái đất thu nhận ánh sáng mặt trời mới lợi Trinh. Trời cao, đất thấp phải nương tựa vào nhau vạn vật mới có sự sống. Mà sinh sôi nảy nở. Điện dương không có điện âm làm sao phát huy ánh sáng, khí dương không có khí âm làm sao sanh thành vạn vật. Cho nên dương phải nuôi âm, âm phải thuận tùng dương mới có sự sống giúp cho muôn loài tiến hóa. Về mặt xã hội, dương là tượng cho người quân tử, là người có đạo đức trí thức, phải biết thương yêu, nuôi dưỡng giáo dục kẻ thấp kém nghèo khổ hơn mình, hạng người tiểu nhân phải biết thuận hòa với người quân tử thì xã hội mới có văn minh tốt đẹp.
* Tượng quẻ Ly một hào âm ở giữa, trên dưới hai hào dương, hào âm ở giữa đứt làm đôi nên lòng trống, tượng là người vô tâm, là “Trung Hư”, người vô tâm là có tâm vô ngã thuần chân, cái tâm không vướng mắc, tâm vô quái ngại thì được tinh minh sáng suốt.
Lạc Long Quân tượng Khảm là trung thực, lòng chân thật ấy là đức chí thành; Âu cơ tượng quẻ Ly là Trung Hư là lòng trống không là đức hư vô, là minh là sáng suốt. Cái đạo thành tắc minh minh tắc thành bắt nguồn từ trong tâm mà phát ra, ấy chính là diệu dụng của Khảm và Ly, của Tâm và Thận hay là Tinh Thần của con người. Chân lý vốn vô hình, Thánh nhân mượn vạch quẻ là hữu hình để mô tả cho ta hiểu phần nào về lý hư vô mầu nhiệm.
Khảm là hành Thủy, Ly là hành Hỏa, tuy hai hành khắc nhau, nếu con người biết tánh chất của Thủy Hỏa mà vận dụng thì mới có lợi cho sự sống. Nếu nước lửa xung khắc chia lìa, thì loài người không tránh khỏi tai họa nguy hiểm.
Càn Khôn là chân thể của Trời Đất, nguyên tổ của âm dương, Khảm Ly là nước lửa, mà nước lửa là công dụng của Càn Khôn, sự sanh hóa của Trời Đất, nếu trong Trời đất, không có nước lửa thì chắc không có sự sống. 
Nguyên Dịch lý chỉ có một âm một dương, chồng lên ba nét thuần âm là Khôn, chồng lên ba nét thuần dương là Càn lấy một nét dương ở giữa quẻ Càn, đem trao đổi nét giữa quẻ Khôn thành Ly Khảm, Ly trung Hư (), Khảm trung mãn (), người tu hành biết cách “chiết Khảm điền Ly” thì Khảm Ly trở thành Càn Khôn, Hậu Thiên trở về lại Tiên Thiên là đạt Đạo. Cổ nhân nói: “Tri Âm Dương khả tri Ly Khảm, sát ngũ hành khả sát Bính Nhâm”.
Theo phương hướng thì Khảm ở chính Bắc, Ly ở chính Nam theo thời gian thì Khảm ở giờ Tý, Ly ở giờ Ngọ, theo thân thể con người thì Ly ở Tâm, Khảm ở Thận, Ly là Thần, Khảm là Tinh. Trong Trời Đất quan hệ nhất là Nước với Lửa, trong con người quan hệ nhất là trục Tinh Thần.
Người sáng suốt biết tính chất của Thủy Hỏa, Hỏa viêm thượng (lửa bốc lên), Thủy nhuận hạ (Nước thấm chảy xuống), đem đặt Nước ở trên Lửa ở dưới, đặt đúng vị trí Nước Lửa gặp nhau mới đem lại sự thành công kết quả, ấy là quẻ “Thủy Hỏa ký tế”.  
Theo sáu hào trong quẻ, dương ở vị dương, âm ở vị âm, âm dương được đắc chính, hào được đắc vị, lại thảy được tương ứng với nhau, xét tượng quẻ mà đoán thì tình hình trong quốc gia xã hội mà được ký tế thì rất ổn định, rất có trật tự, mọi sự vật đều được thành tựu, hoàn toàn tốt đẹp.
Vũ trụ chi Thủy là Càn Khôn, Vũ trụ chi Chung là Thủy Hỏa, vạn sự vạn vật nương tựa vào Thủy Hỏa mà sinh tồn, nếu có Thủy mà không có Hỏa hay ngược lại có Hỏa mà không Thủy thì bị rơi vào thế tuyệt đối, mà tuyệt đối thì làm sao có đấu tranh, có tương khắc, tương phản để tương thành. Thủy Hỏa không tiếp xúc với nhau làm sao có tương khắc, cái yếu lý của Dịch là ở chỗ đó, khắc để mà sanh, chứ không phải khắc để mà tiêu diệt lẫn nhau!
- Có tương giao mới có tương khắc.
- Có tương khắc mới có tương thành.
- Có tương thành là nhờ có tương đối.
Tất cả Vũ trụ sinh động biến hóa cũng nương vào luật âm dương tương đối, tương khắc, tương thành.
Công trình Ký Tế phải trải qua hai thời kỳ, thời kỳ lộn xộn rối ren, việc gì không ra việc gì, lúc ấy gọi bằng Vị Tế. Tiến lên thời kỳ hổn độn, cực loạn để sang giai đoạn bình trị thời kỳ ấy gọi bằng Tương Tế. Trải qua hai thời kỳ Vị Tế và Tương Tế, lúc bấy giờ thấy việc gì cũng được ổn định, vật gì cũng được thành công kết quả, ầy là thời Ký Tế.
Tóm lại, Vị Tế là thời kỳ ly tán, phá hoại, Tương Tế là thời kỳ tạo nhân, Ký Tế là thời kỳ đã kết quả.
Soán từ: Ký Tế, Hanh, Tiểu, Lợi Trinh, Sơ kiết, chung loạn.
 Dịch nghĩa: Thời Ký Tế mọi việc lớn đều được hanh thông, chỉ còn lo việc nhỏ nhen tẳn mẳn sao cho được tốt đẹp, cực điểm thành công, nhưng muốn giữ sự thành công lâu bền phải hết sức trinh cố, nghĩa là phải giữ lấy chính đạo cho bền vững, nếu không thì tương lai mầm loạn ly sẽ đến làm sụp đổ thời kỳ Ký Tế.
Cơ Trời biến dịch thạnh rồi suy, thái rồi bỉ là vậy. Trong thời Ký Tế đã chứa sẵn mầm Vị Tế ở bên trong, chờ cơ hội làm nát bét thời Ký Tế, nếu không có vậy thì làm sao gọi là Dịch biến được.
Đơn cử một vài trường hợp Ký Tế, nhỏ như việc nấu ăn, gạo củi, nước, lửa, nồi niêu, mỗi thứ đều ở mỗi nơi nhưng nếu biết cách sắp đặt nấu thành cơm để ăn ấy là Ký Tế.
Trong một gia đình, vợ chồng hòa thuận, anh em kính nhường, con cái hiếu thảo, ông bà già cả được phụng dưỡng chu đáo, báo bổ thâm ân, đạo cang thường luân lý được tôn sùng, gia đình có hạnh phúc, đó là thời Ký Tế.
Một nước có trật tự kỹ cương, các từng lớp người: Công, nông, thương, học thức, trí thức, quân, sư, phụ ai ai cũng các tận sở năng, làm hết sức mình phục vụ cho tổ quốc dân tộc. Hành động vì thương đồng bào nghèo khổ, dốt nát, bệnh tật, quyết tâm làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng hạnh phúc, ấy là thời Ký Tế.
Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế đối với con người, Thủy là Thận, Hỏa là Tâm, Tâm hỏa có hạ giao với Thận Thủy, Thận Thủy có thượng giao với Tâm Hỏa, Tâm Thận tương giao, Thủy Hỏa Ký Tế, Tinh Thần hiệp nhứt, thì con người mới được thông minh tráng kiện, âm dương trong người quân bình con người không bệnh tật.
Theo thể quẻ Ký Tế: Hào 1, 3, 5 là hào dương ở vị dương, hào 2, 4, 6 là hào âm ở vị âm, thế là cương nhu đều được đắc chính, mỗi hào đều ở đúng vị trí của mình nên được đắc vị, xem thể quẻ đủ thấy rằng: “Đạo làm nên Ký Tế cốt ở đức TRUNG CHÍNH”.
Trong 64 quẻ Dịch đều diễn đạt mọi tình huống tương quan trong nhân sinh xã hội, theo một quy luật âm dương tráo trở, Càn Khôn giao biến tuần hoàn luân chuyển, không bao giờ cùng. Trong công trình đại diễn luôn luôn có sự mâu thuẫn tương phản mà lại nối tiếp nhau liên tục. Thí dụ: Quẻ  Địa Thiên Thái tiếp theo Thiên Địa Bỉ, quẻ Thủy Hỏa Ký Tế tiếp theo Hỏa Thủy Vị Tế. Cơ tấn hóa tồn vong của nhân loại đại khái là Bỉ cực thì Thái lai, Thái đến tột rồi Bỉ trở lại, thời Thái thường đi với Ký Tế, thời Bỉ thường đi với Vị Tế.
Quẻ Địa Thiên Thái biểu thị Càn Thiên, dương làm chủ, Khôn Địa âm làm khách. Đây là tượng quái đại biểu cho tất cả từ cá nhân cho đến gia đình, quốc gia xã hội, biết đặt dương là tinh thần làm chủ vật chất là được Địa Thiên Thái, còn ngược lại đặt âm là vật chất làm chủ là Thiên Địa Bỉ.
Chúng ta học Dịch thấy 4 quẻ: Thái, Bỉ, Ký Tế, Vị Tế liên tục nối tiếp nhau trong cuộc tuần hoàn thiên diễn, ai lại không ngao ngán cho khí số bất thường của vạn sự vạn vật đều chịu khuất phục trước định luật khắt khe của hóa công nào là : Thành trụ hoại không, dinh hư tiêu trưởng, liên miên bất tận… 
Ông Hoàng Thạch Công có nói: “Phàm vi nhân giả, bất khả vô nhất yên, cố hiền nhân quân tử minh hồ thạnh suy chi đạo, thẩm hồ trị loạn chi thế, sát hồ khứ tựu chi lý, cố tiềm cư bảo đạo, dĩ đãi thời kỳ”.


 Dịch nghĩa: Làm người không thể thiếu một điều này: Bậc hiền nhân quân tử phải hiểu rõ Đạo có lúc thạnh lúc suy, thẩm xét về thế sự có lúc trị lúc loạn, quan sát rõ cái lý nên ở hay nên đi, nếu chẳng phải thời, thì nên ẩn dật nuôi lấy chí khí Đạo để chờ thời cơ.
Dưới đây là vòng Dịch trong một ngày một đêm 12 thời có 12 quẻ, chứng minh cho quẻ Thuần Khôn biến thành Thuần Càn, 6 khí dương lần lượt làm chủ; rồi đến lượt Thuần Càn biến ra Thuần Khôn, 6 khí âm làm chủ. Trong 12 giờ từ Tý đến Tỵ là sáu khí dương làm chủ, từ Ngọ sang Hợi là sáu khí âm làm chủ, theo định luật Tý tấn dương, Ngọ thối âm phù, mỗi khí có một quẻ, 12 thời có 12 quẻ, hay 12 tháng trong một năm cũng vậy.
12 quẻ chứng minh cho luật âm dương biến hóa theo quy luật phản phục, tiêu trưởng, hết thịnh lại suy, hết suy lại thịnh, âm cực thì dương sanh, dương cực thì âm sanh theo quái đồ vòng tròn của Càn Khôn thăng giáng thì quẻ PHỤC là quẻ dương vừa mới sinh, từ dưới lên đến quẻ Quyết là có 5 hào dương, âm còn 1. Đến Càn là thuần dương. Quẻ Cấu được 1 âm sinh ra từ Quẻ Càn, từ trên xuống dưới đến quẻ Bát thì âm có 5, dương còn 1, đến Khôn thuần âm không còn dương nữa.
Vòng tròn mô tả quẻ Phục làm chỗ dương sinh từ dưới, lấy quẻ Cấu làm chỗ Âm sinh từ trên, dương thăng âm giáng theo chiều thuận, quanh đi, quẩn lại có trước phải có sau, âm dương hổ tương, sinh thành, hủy diệt tuần hoàn liên tục mãi mãi không cùng. Vua Phục Hi trong khi ngắm nhìn Thiên văn cúi xét Địa lý đã khám phá ra cái huyền diệu ẩn vi ấy. Từ đó, phát huy sáng kiến gôm hết Vũ trụ trong Quái đồ của Ngài, đặc biệt nhất là ghi rõ những sự biến thiên tiêu trưởng dinh hư, thăng giáng, thuận nghịch của âm dương, những phương pháp sổ vãng tri lai, đo lường không thời gian một cách vô cùng kỳ diệu.
 1. Địa Lôi Phục                    Giờ Tý, một hào dương làm chủ
                                                                   (xem từ dưới lên).
2. Địa Trạch Lâm                  Giờ Sửu, 2 hào dương làm chủ.
3. Địa Thiên Thái                 Giờ Dần 3 hào dương làm chủ.
4. Lôi Thiên Đại Tráng        Giờ Mẹo 4 hào dương làm chủ.
5. Trạch Thiên Quyết           Giờ Thìn 5 hào dương làm chủ.
6. Bát Thuần Càn                 Giờ Tỵ 6 hào dương làm chủ.
1. Thiên Phong Cấu             Giờ Ngọ 1 hào âm làm chủ.
2. Thiên Sơn Độn                 Giờ Mùi 2 hào âm làm chủ.
3. Thiên Địa Bỉ                     Giờ Thân 3 hào âm làm chủ.
4. Phong Địa Quán               Giờ Dậu 4 hào âm làm chủ.
5. Sơn Địa Bát                      Giờ Tuất 5 hào âm làm chủ.
6. Bát Thuần Khôn              Giờ Hợi thuần âm.
Lạc Long Quân với Bà Âu Cơ lấy nhau tượng quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, nhưng bản chất của Thủy Hỏa tương khắc, không sống chung với nhau được nên phải chia ly, ấy là thời Vị Tế. Hợp và ly, tán và tụ là chân lý phổ biến của Đạo Dịch, quẻ Vị Tế để sau hết bộ Kinh Dịch, Thánh nhân muốn dạy chúng ta biết rõ lý tụ tán, Bỉ Thái trong Trời đất không bao giờ cùng. Vị Tế là quẻ sự việc chưa xong, chưa thành, chưa cùng, cần phải sinh sinh biến hóa mãi.
* Nay bàn chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nở một trăm người con, khi chia ly, 50 người theo mẹ lên non, 50 người theo cha xuống biển, câu chuyện nghe như mơ hồ, vô lý, nhưng thực chất mang một sắc thái minh triết vĩ đại.
Chúng ta thử tìm hiểu, con người khi bắt đầu phôi thai là nhờ tinh cha huyết mẹ tức là tinh trùng kết hợp với noãn sào làm ra bào thai, khi tinh trùng được xâm nhập vào noãn sào liền phân bốn, phân tám theo quy luật tứ tượng bát quái của Đạo Dịch. Noãn sào là một hòn huyết giống như cái trứng.
Cổ nhân nói: Thiên Địa như kê noãn (Trời Đất như cái trứng gà), trong trứng gà có một khoảng trống chứa khí, ấy là Vô Cực, mầm trứng tượng Thái Cực, tròng trắng và tròng đỏ tượng âm dương, trứng gà đủ tiểu biểu cho Vũ trụ quan cùa Dịch. Một trăm trứng là số cộng thành của Hà Đồ và Lạc Thơ. Hà Đồ có 55 số, Lạc Thơ có 45, cộng là 100. Hà Đồ là nguyên lý âm dương sanh thành ra ngũ hành theo Bát Quái Tiên Thiên, Lạc Thơ là nguyên lý khắc chế của ngũ hành theo Bát Quái Hậu Thiên. Sự sanh thành khắc chế Âm Dương Ngũ hành là chân lý phổ quát của Dịch để giữ sự quân bình trật tự trong Vũ trụ nhân sinh. 50 theo mẹ, 50 theo cha là nói lên sự công bằng âm dương và cũng là lý bình đẳng giữa nam và nữ, rõ ràng là trong thời kỳ Lạc Long Quân không có chuyện trọng nam khinh nữ, mà đã có thuyết bình đẳng bình quyền. Như thế đủ thấy trình độ văn hóa của dân tộc lúc bấy giờ thật là cao đẹp, có thế dân tộc mới tự hào trên bốn ngàn năm văn hiến.
Con số 50 là số bí quyết của Đạo Dịch, con số đại diễn của Càn Khôn. Đại diễn như thế nào? Sẽ giải thích ở mục Hà Đồ và Lạc Thư sau.
Chúng ta học Dịch cốt tìm ra sự quân bình, sự đối tác cân phân của Âm Dương và Ngũ hành, ta thử vạch một chữ thập xuyên qua tứ chính trên Tiên Thiên Bát Quái, ta có một đường dọc nối liền Nam Bắc, một đường ngang nối liền Đông Tây, hai đường tung hoành dọc ngang ấy tạo thành thế đối đãi giữa hai cặp Càn Khôn, Ly Khảm ở bốn trục chính, còn bốn góc Chấn Tốn, Cấn Đoài đều đối diện nhau từng cặp đấy là sự đối đãi của Âm Dương. Đem 64 quẻ ra xét thì Thái đối diện với Bỉ, Ký Tế đối diện với Vị Tế, Tiểu Quá đối diện với Trung Phu, Di đối diện với Đại Quá v.v… Lấy đó mà suy thì các quẻ Tiên Thiên hay Hậu Thiên đều có sự biến đổi phản phúc như vậy.
Việc đối đãi âm dương chỉ là cái luật tự nhiên của Trời Đất theo Đạo Dịch, bởi vì vạn vật không có một mà phải có đôi, có âm có dương thì phải có ác có thiện, có nam có nữ, có nóng thì phải có lạnh, có trên thì phải có dưới v.v… Vạn vật chẳng có gì là không đối đãi nhau, hễ dương trưởng thì âm tiêu, tiểu nhân tăng thì quân tử giảm, cứ lấy cái lý ấy mà suy thì chẳng có gì thắc mắc khó hiểu cả.
Lý đối đãi là cái gốc của sự “Sinh Sinh” chỉ có người hiểu đạo mới có thể biết được. Tóm lại sự đối đãi của Bát Quái hay của gia đình Đế Minh chẳng qua là sự biểu thị tương phản tương thành của Âm Dương, do đó mà có Càn Khôn, Trời Đất, nam nữ, khi có nam nữ trống mái thì vấn đề sinh sinh ắt phải có, mà sinh sinh tức là Đạo Dịch (sinh sinh chi vị Dịch).
Trên đây là nói cái chân lý tương đối ở cõi hữu hình, sắc giới chứ khi tâm thức đã vượt qua khỏi cõi tương đối âm dương thì âm dương chỉ còn là một khí ấy là Thái Cực hay Vô Cực chân lý tuyệt đối của Dịch.
Sách Dịch nói: Âm Dương chỉ là một khí, âm khí lưu hành tức là dương, dương khí ngưng tụ tức là âm. Thật chẳng có hai vật chống đối nhau bao giờ.
- Âm dương chỉ thị nhất khí, âm khí lưu hành tức vi dương, dương khí ngưng tụ tức vi âm, phi chơn hữu nhị vật tương đối dã.
Ông Phytagore nói: Cái “một” là qui luật của Tạo hóa.
- Sự tiến hóa là quy luật của sự sống.
- Con số là quy luật của Vũ trụ.

IV- HÀ ĐỒ VÀ LẠC THƯ:
Học Dịch tất phải nghiên cứu Hà Đồ và Lạc Thư.
Hà Đồ và Lạc Thu là nguồn gốc của quái hoạch, quái hoạch là vẽ ra thành quái, quái là dấu hiệu tượng trưng cho âm dương động tịnh, giao dịch, biến dịch, sanh thành, tiêu trưởng.
Hà Đồ và Lạc Thư chính là hai khái niệm của một bản thể Vũ trụ, nó làm nền tảng cho Vũ trụ quan và nhân sinh quan thống nhất của Đạo Dịch.
Tương truyền Vua Phục Hi thấy con Long Mã xuất hiện trên sông Mạnh Hà có mang một bức đồ hình nên gọi là Hà Đồ, Ngài dựa vào bức đồ hình mà vạch ra Bát Quái Tiên Thiên.
A. HÀ ĐỒ
Hà Đồ có 55 số, số dương gồm có 1+3+5+7+9 = 25.
Số âm có 2+4+6+8+10 = 30
Cộng số âm dương có 55 số.
Trời có năm số dương, Đất có năm số âm, năm ngôi tương đắc, hòa hợp mà sanh thành vạn vật. Hà Đồ vận hành theo luật thuận sanh. Các Số của Hà Đồ gồm có Âm Dương, Ngũ Hành vận chuyển sự biến hóa và điều hành việc Quỷ Thần.
Hà Đồ lấy con số Long Mã làm biểu tượng. Rồng là “Khí” tượng cho không gian vô biên, Mã là ngựa “Ý” tượng cho thời gian vô tận. Long Mã là biểu tượng không thời hiệp nhứt phát sanh Càn Khôn Vũ Trụ vạn vật chúng sanh. Hà Đồ lấy con số một Thái Cực và con số không (0) Vô Cực tức là số 10 thành Thổ cộng với con số 5 sanh Thổ tức là số 15, con số trung tâm điểm của Hà Đồ.

Quan niệm Vũ trụ đều qui vào thuyết Âm Dương ngũ hành, động tịnh, biến hóa. Dương động Âm tịnh nên Dương bao giờ cũng tác động mạnh khắp Vũ trụ để gây mầm “sanh”, trong khi âm lặng lẽ hóa “Thành” tất cả những gì dương đã biến sanh. Bởi vậy Hà Đồ mới có số sanh và số thành. Theo Dịch thì dương tức là Trời, âm tức là Đất. Theo số thì Cơ là lẻ, Ngẫu là chẵn, lẻ là Trời, chẵn là Đất.
Do đó sự sanh thành của Trời Đất mới chuyển từ vô hình qua hữu hình, biến sanh muôn vật do năm yếu tố căn bản là Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo thành.
Sự biến hóa muôn loài phải do sự sanh thành của Âm Dương Trời Đất, nhưng số của Trời Đất phải tương đắc và hữu hạp, đó là thứ tự đương nhiên do trật tự của Âm Dương từ khai Thiên lập Địa, không bao giờ rối loạn.
Quá trình cuộc sanh thành vạn hữu từ vô hình qua hữu hình ta có thể trình bày khái quát như đồ biểu sau đây:
Âm Dương Ngũ Hành
Trời 1 sanh Thủy                    Đất 6 thành Thủy.
Đất 2 sanh Hỏa                      Trời 7 thành Hỏa.
Trời 3 sanh Mộc                    Đất 8 thành Mộc.
Đất 4 sanh Kim                     Trời 9 thành Kim.
Trời 5 sanh Thổ                     Đất 10 thành Thổ.
Số 5 sanh Thổ là cực của vô, số 10 thành Thổ là cực của hữu, số 15 ở trung tâm điểm Hà Đồ là số vô hình và hữu hình tương đắc nên gọi số 15 là số huyền diệu. Vì nó là thành quả tổng hợp của Âm Dương và Ngũ Hành gồm có 7 số (2+5).
Tóm lại sự tạo dựng Trời Đất, sự biến hóa của Âm Dương, sự tác động của Ngũ Hành, sự sanh thành của muôn loài vạn vật đều tùy thuộc những con số của Hà Đồ.
Chúng ta không ngờ những con số biểu thị qua những chấm trắng đen trên lưng con Long Mã lại có một tác dụng kỳ diệu vô cùng đối với hành trình khám phá Vũ trụ. Vì vậy, nên các học giả ngày xưa đã ca tụng lý số học đến hết lời.
 Ôi Trời Đất sở dĩ gây dựng lên được là nhờ sồ
 Người và vật sở dĩ sanh thành được là nhờ số
 Muôn việc sở dĩ được mất cũng là bởi số.
Cái thể của sự biểu hiện là hình, cái dụng của sự thần diệu là lý. Nếu chẳng phải là một vật biểu tượng độc lập, hiểu thấu được thần minh, biết rõ được biến hóa, thì làm sao có đủ điều kiện để tham dự vào đó.
“Phù Thiên Địa chi sở dĩ triệu giả số dã,
Nhân vật chi sở dĩ sinh giả, số dã
Vạn vật chi sở dĩ thất đắc giả, diệt số dã
Số chi thể, trước ư hình, số chi dụng diệu hồ lý
Phi cùng Thần tri hóa, độc lập vật biểu giả, hạt túc dĩ dữ thử tai”.



B. LẠC THƯ
Dịch Hệ Thượng nói: Đồ xuất hiện ở sông Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, Đức Phục Hi căn cứ theo đó mà làm ra Kinh Dịch, như thế Hà Đồ và Lạc Thư có mặt trong Đạo Dịch một lượt, Đức Phục Hi cảm nhận được lý Trời Đất nên đã vẽ ra. Nó xuất hiện một lượt vì theo lý Âm Dương tương đối, hễ có Tiên Thiên thì có Hậu Thiên, có thuận thì có nghịch, có phải thì có trái. Dịch nói: “Lưỡng bất lập tắc nhất bất kiến” không tạo nên hai đối tượng thì không thấy chân lý. Lạc Thư không phải đến đời Vua Hạ Vũ mới xuất hiện, nó là nguyên lý nghịch khắc của Ngũ Hành đối với Hà Đồ, đã có trong thời Phục Hi chỉ vì người sau không đạt thấu lý nên lơ đi, hoặc không chịu tìm hiểu. Đến như Ông Cổn không rõ luật khắc chế của Ngũ Hành nên đã làm rối loạn thành phải chết. Thiên Nghiêu điễn có nói: Thời Vua Nghiêu (2356 – 2255) trước TL. Nước Trung Hoa bị ngập lụt liên miên, Vua bèn sai ông Cổn đi trị thủy khai mở kinh lạc sông ngòi cho nước rút, có đất dân cày cấy làm ăn. Sau 9 năm ông Cổn không hoàn thành được công trình trị thủy, đành chịu thất bại. Con ông là Vua Đại Vũ tiếp tục việc trị thủy của cha bất thành, ông Vũ đi khắp nơi khai sông ngòi cho nước chảy ra biển cả, nước thuận dòng chảy thông, không còn ngập lụt nữa, nhân dân nhờ đó mà cày cấy làm ăn, no ấm hạnh phúc. Ông Vũ trị thủy được là nhờ thông suốt được lý khắc chế của Ngũ Hành trong Lạc Thư mà Vua Phục Hi đã truyền lại.
Lạc Thư lấy tượng con Rùa Thần cho nên số của nó: Đầu đội 9, đuôi đạp 1. Hông bên trái 3, hông bên phải 7, hai vai mang 2 và 4, chân đi 6 và 8, giữa lưng là số 5.
Số dương cộng 1+3+5+7+9 = 25
Số âm cộng 2+4+6+8 = 20, tất cả số là 45.
Lạc Thư là huyền số, con số có chứa sự huyền bí mầu nhiệm lấy số 5 Hoàng Cực làm tâm điểm, Lạc Thư là quy luật Ngũ Hành vận động, lấy sự khắc chế để giữ luật quân bình công bằng, bình đẳng trong khi biến hóa.
Trong 5 hành tương quan ức chế, hưng phấn lẫn nhau không cho hành nào suy quá hay vượng quá, Lạc Thư không thể có sự thái quá và bất cập trong 5 hành, nhờ có số 5 trung tâm Hoàng Cực là số Trung Hòa quy hiệp Tứ Chính.
Lạc Long Quân vô cớ lấy chữ Lạc làm đầu danh hiệu mà cả các chức quan văn võ cũng dùng chữ Lạc, quan văn Lạc Hầu, võ Lạc Tướng, phải chăng Lạc Long Quân là bậc Thánh quân soi thấu Huyền lý của Lạc Thư nên Ngài lấy đó làm định hướng xây dựng nền tảng chánh trị xã hội Việt Nam trong buổi đầu lập quốc.
Khảo sát Hà Đồ có 55, Lạc Thư 45, cộng lại là một trăm số đem chia hai thành 50. Con số 50 này tượng trưng cho 50 người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển, 50 theo mẹ Âu Cơ lên núi, mặc dù ở trong tình trạng phân tán chia ly nhưng dù lên non hay xuống biển, mỗi người đều mang theo con số 50, ấy là số đại diễn của Đạo Dịch.
ĐỒ BIỂU I
Biểu đồ Tiên Thiên Bát Quái hợp đạo diễn 50, dùng 49 số.

 Số đại diễn là số sáng lập ra Càn Khôn Vũ trụ của ngôi Trời Thái Cực. Dịch có ngôi Vô Cực nhi Thái Cực, Vô Cực mà là Thái Cực tiêu biểu cho Ông Trời Việt Nam. Ngôi Thái Cực ở chính giữa không thể lấy số để đặt tên, chỉ kể từ Lưỡng Nghi Tứ Tượng và Bát Quái.
1. Lưỡng Nghi 1 + …………               = 3
2. Tứ Tượng 1+2+3+ ………              = 10
3. Bát Quái 1+2+3+4+5+6+7+ˆ           = 36
                                                                   49
Nếu lấy ngôi Thái Cực chủ thể, nguyên cơ Vũ trụ cộng vào thành 50. Số đại diễn tuy 50 nhưng đem ra dùng là 49.
Ngôi Thái Cực tức là ngôi THẦN vốn vô hình rổng không cho nên Dịch nói Vô Cực mà là Thái Cực, ta tạm gọi số Vô Cực và Thái Cực là số “Hư Nhất” là biểu tượng Thượng Đế lý tính.
Đồ biểu II – Hồng Phạm Cửu Trù
Cửu Trù trong thiên Hồng Phạm gồm có 9 nguyên tắc chính dựa vào các số của Lạc Thư.
1. Ngũ hành                                                        6. Tam Đức
2. Ngũ sự                      5. Hoàng Cực               7. Kê nghi
3. Bát Chánh                                                       8. Thứ trưng
4. Ngũ kỷ                                                            9. Ngũ phước, lục cực.
 Cộng số Cửu Trù: Ngũ hành 5, Ngũ sự 5, Bát chánh 8, Ngũ kỷ 5, Hoàng Cực 5, Tam đức 3, kê nghi 2 (có hai cách bói cỏ thi và mu rùa), thứ trưng 5 (thời tiết có năm thứ: mưa, tạnh, nóng, gió, lạnh), Ngũ phước 5, lục cực 6. Cộng các số cửu trù thành 49 số. Nếu lấy ngôi Thái Cực gia vào thành số 50. Nghiên cứu Hà Đồ Bát Quái Tiên Thiên và Lạc Thư Bát Quái Hậu Thiên ta thấy có sự trùng hợp kỳ lạ giữa Hà Đồ và Lạc Thư về trường hợp số đại diễn 50. Bát Quái Tiên Thiên có ngôi Thái Cực để qui Âm Dương, Bát Quái Hậu Thiên có ngôi Hoàng Cực để hiệp Ngũ Hành, địa vị và chức năng của hai ngôi đều ở vị trí trung tâm điểm để quy nguyên hiệp nhất Âm Dương và Ngũ Hành.
Con số 49 còn dùng vào việc bói toán, con số này người xưa dùng 49 tép cỏ thi để bói kiết hung họa phước. Cổ nhân đã biết con số 49 kỳ diệu vì: 2 là âm dương, 5 là ngũ hành cộng lại thành 7, và cũng biểu tượng cho số Trời 3 Đất 4, con số An Thiện Định Địa, con số 7 bao gồm hết thảy Vũ trụ, gồm tất cả bao la vạn tượng. Số 7 cũng là ma phương sao Kim, con số của Đức Thái Bạch Kim Tinh, Giáo Tông vô vi của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Số 7 phủ trùm hết thảy cõi u và minh trong Vũ trụ nhân sinh. Thí dụ: mặt trời có bảy màu, Đức Chúa Trời lập Vũ trụ có 7 ngày, nhạc lý có 7 âm thanh, con người có 7 thể phách, Đạo Dịch cũng chỉ diễn có 7 đợt từ 1 Thái Cực, 2 Lưỡng Nghi, 3 Tứ Tượng, 4 Bát Quái, 5 là 16 Quái, 6 là 32 Quái, 7 là 64 Quái. Đạo Phật cũng có 7 báu v.v…
Nền văn minh Kim Tinh tức là ma phương số 7 sẽ ảnh hưởng sâu rộng trong nhân loại trong thiên niên kỷ thứ 3.
Như trên ta đã thấy các số xây dựng Bát Quái Tiên Thiên hay các số thành phần xây dựng Hậu Thiên của chín trù, bên nào cũng có số 49, cộng ngôi Thái Cực vào đều trở thành số 50, số đại diễn của Đạo Dịch, thành thử Hà Đồ và Lạc Thư xuất xứ có khác nhau, nhưng bản chất có giống nhau; nếu có điều dị biệt, thì chỉ dị biệt trong những danh từ biểu lý, vị tượng, hay cách vận động xuôi ngược, trái phải …
Hà Đồ biểu tượng Bát Quái Tiên Thiên, phát kiến qui luật Âm Dương sanh thành Ngũ Hành, nó còn ở trong khái niệm, chưa thành hình thể. Còn Lạc Thư Hậu Thiên Bát Quái đã định hình có 8 hướng 4 phương đều được quân bình, còn đủ cả thời gian không gian hiệp nhất, người xưa có đặt bài thơ để nhớ.
Càn tam liên Tây Bắc Tuất Hợi.
Khảm trung mãn chánh Bắc đương Tý.
Cấn phúc uyển Đông Bắc Sửu Dần.
Chấn ngưỡng bồn chánh Đông đương Mão.
Tốn hạ đoạn Đông Nam Thìn Tỵ.
Ly Trung hư chánh Nam đương Ngọ.
Khôn lục đoạn Tây Nam Mùi Thân.
Đoài thượng khuyết chánh Tây đương Dậu.
Hà Đồ Tiên Thiên là thể của Dịch.
Lạc Thư Hậu Thiên là dụng của Dịch.
Ở Tiên Thiên Âm Dương Ngũ Hành chỉ lập thể cho Vũ Trụ nên theo định luật tương sanh.
Ở Hậu Thiên Âm Dương Ngũ Hành thực hiện chương trình tiến hóa cho toàn thể Vũ trụ nên ngũ hành theo định luật tương khắc.
Thực ra Vũ trụ vạn hữu sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh hóa hóa không ngừng tất cả đều nằm trong định luật sinh thành tiêu trưởng của Âm Dương và định luật sanh, khắc, chế hóa của Ngũ Hành mà thôi.



cho nên Lạc Long Quân lấy Lạc Thư làm thượng đích để xây dựng Tổ quốc và xã hội Việt Nam lúc ban sơ.
Ngày nay, ta nên tìm hiểu tinh hoa của Lạc Thư là gì? Chín con số của Lạc Thư nói lên ý nghĩa gì? Tại sao Tổ Tiên ta áp dụng Lạc Thư trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội …? Con số của Trời Đất (Hà Đồ) lấy số 5 đặt ở giữa 1.2.3.4..6.7.8.9.10. Con số Lạc Thư cũng lấy số 5 đặt ở giữa. Con số sanh của Trời Đất có 10 (1+2+3+4 = 10), con số của Lạc Thư tuy không có 10, nhưng cộng tứ chính (4 góc chính) 1+9, 3+7 và tứ ngung (4 góc là) 2+8, 4+6 đều có con số 10 cả.
Số Hà Đồ lấy 5 số sinh hiệp nhứt với 5 số thành để lập vị cho 5 hành ở 5 phương, thí dụ: 1+6 là hành Thủy ở Bắc phương, 2+7 là hành Hỏa ở Nam phương, 3+8 là hành Mộc ở Đông phương, 4+9 là hành Kim ở Tây phương, 5+10 hành Thổ ở Trung ương.
Còn Lạc Thư thì lấy 4 số cơ (lẻ) 1.3.7.9 hiệp nhau, dương số hiệp với dương số như 1+9 = 10, 3+7 = 10. Bốn số ngẫu (chẵn) 2.4.6.8 âm hiệp với âm 2+8 =10, 4+6 =10, âm và dương, chẵn và lẻ có phân biệt, nhưng có ngôi Hoàng Cực là số 5 ở trung ương thống lãnh 4 phương 4 hướng, nên gia đình Lạc Thư rất có trật tự quân bình tuyệt đối, vì phương nào cũng được số 15.
Cái bí quyết của Lạc Thư là Thánh nhân muốn dùng pháp khắc chế để đưa Bát Quái Hậu Thiên trở về với Tiên Thiên đưa Lạc Thư trở về với Hà Đồ. Hà Đồ có số trung tâm điểm là 15, còn Lạc Thư thì 4 phương, 4 hướng cộng lại cũng thành 15, đây là con đường Hoàn Nguyên Phản Bổn, con đường về với nguồn cội Bản thể vĩnh hằng, cho nên Lạc Thư gọi con số 15 là Huyền Diệu.
 Trong Lạc Thư tuy mỗi số đều ở riêng phương mình, nhưng vẫn nối liền nhau như 1 liền với 6, 2 liền với 7, 3 liền với 8, 4 liền với 9, cùng làm kinh vĩ biểu lý cho nhau, tạo thành chữ vạn như cái chong chóng xoay mãi không ngừng nhờ thế mà Ngũ Hành mới năng biến hóa, biến hóa từ hữu sang vô và từ vô sang hữu, và vì vậy mà có sanh tử luân hồi.
Ta thử tìm các số cơ ngẫu âm dương trong đồ Lạc Thư xem cổ nhân sắp đặt vận hành bằng cách nào mà bốn phương bốn hướng đều có một trùng số 15.
Ta hãy viết chín số thứ tự trong một hình vuông 9 ô (hình 1) chia ra 3 cấp; từ chín con số thứ tự theo luật tự nhiên, cổ nhân lại an bài các số trên Lạc Thư khác đi là vì lẽ gì? Và vận động bằng cách nào để được số 15 cho mỗi hàng, mỗi cột. Trong Lạc Thư có 9 số, trừ số 5 là Trung Tâm Hoàng Cực, còn lại 4 số âm và 4 số dương âm có 2,4,6,8, dương có 1,3,5,7,9.
Số âm được quay thuận chiều (theo kim đồng hồ) tiến từng cấp một, số 2 tiến một cấp lên thế chỗ số 3, số 6 tiến lên một cấp thế chỗ số 9, số 8 lên thế chỗ số 7, số 4 tiến lên thế chỗ số 1. Số âm từng bước một mà tiến, không vượt quá giới luật. Số âm từ ở địa vị tứ chính, đã thay chỗ các số dương về định vị ở tứ ngung.
Số dương thì lại quay ngược chiều nhưng phải tiến qua 3 cấp để định vị, con số 1 quay ngược chiều qua 3 cấp đến thay con số 8. Con số 9 quay nghịch chiều đến định vị tại chỗ số 2. Con số 3 quay nghịch chiều đến định vị tại chỗ số 4, số 7 quay nghịch chiều qua 3 cấp đến ở chỗ số 6. Thế là số dương đã đắc chính vị (tứ chính) còn số âm thì ở tứ ngung để hộ trì, con số 5 an vị ở Trung ương làm chủ ngôi Hoàng Cực.
Số 1+9, 3+7 ở tứ chính nên gọi số dương là số trung chính. Số 2+8, 4+6 ở bốn góc là tứ ngung, nên gọi số âm là số thiên tà. Số cơ (lẻ) là quân, số ngẫu (chẵn) là thần, quân thần tương hiệp, cho nên số dương trung chính để thống lãnh số âm thiên tà. Số 5 là ngôi Hoàng Cực ngự tại Trung ương để quan sát và chỉ huy 4 phương, 4 hướng, và các phương hướng phải tùng quyền pháp của ngôi Hoàng Cực mới được thành công viên mãn.
* Hành Thổ của Lạc Thư chỉ có con số 5 là dương Thổ còn con số 10 thành Thổ ở Hà Đồ thì ở Lạc Thư, Thổ đã chạy ra vòng ngoài nương tứ phía bốn phương đều có Thổ, vì số 10 bốn phương đều có mặt như: 2+8, 4+6, 1+9, 3+7. Cũng như một năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hay 12 tháng có 4 tháng giao mùa là tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12. Đem số thành Thổ nương tứ phía cộng với số 5 Hoàng Cực Trung ương thành số 15. Số 15 lại là số sanh thành của Thổ ở trung tâm Hà Đồ. Đây là bí pháp của Dịch, nguyên thủy của Dịch từ Hà Đồ Bát Quái Tiên Thiên, gồm có Thái Cực, Âm Dương, Ngũ Hành, tạo cơ sanh thành muôn loài vạn tượng, vật chất chúng sanh tung tỏa khắp cùng Trời Đất. Nhưng lẽ Trời có sanh phải có diệt, có đi phải có về, nên Lạc Thư là đồ Hậu Thiên Bát Quái dùng phép Ngũ Hành khắc chế để đưa người và vật trở về bản nguyên, ấy là Hoàn nguyên phản bổn trở về nguồn cội. Dịch nói: Nhứt bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản.
Trời Đất là Âm Dương dùng Ngũ Hành để sanh thành vạn vật, vạn vật cũng phải tùng Ngũ Hành khắc chế để tiến hóa, để hóa khí mà trở về cùng Trời Đất. Nên ngũ hành là cái pháp trung gian giữa hữu hình và vô vi, giữa Trời Đất và vạn vật, nó vừa mang khí thể và hình thể và cùng tiến hóa theo vạn vật chúng sanh, thí dụ: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa đều có tính chất khác nhau vì ở phương vị khác nhau, nhưng khi tung ra 4 phương vận hành đều thu hút được tinh hoa của Trời Đất, nên mỗi hành đều có số 15 là sanh thành của Thổ, mỗi hành ở mỗi phương đủ tư cách thay cho Thổ mà tạo ra bầu Trời Đất mới, mà đây cũng là Pháp “Tứ Tổ qui gia”, bốn Ông Tổ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, đều về hiệp một nhà, nhà đây là Mậu Thổ. Kim đắc Thổ mà sanh, Mộc đắc Thổ mà vượng, Thủy đắc Thổ mà dừng, Hỏa đắc Thổ mà ngưng. Thổ là nơi trung hòa của vạn vật, cho nên trong Ngũ Hành hai chiều sanh khắc, thuận nghịch đều về với Thổ, ấy là Ngũ Chi hiệp nhất.
 Con số 15 cũng là số Trời Đất Người,  Tam tài hiệp nhất, Trời có Ngũ khí, đất có Ngũ hành, người có ngũ tạng, cùng hội thông hiệp nhất trong một bản thể là Hà Đồ và Lạc Thư.
Sự liên hệ giữa Trời Đất Người rất quan hệ mật thiết vào đời sống của vạn vật từng giây, từng phút nên Lạc Long Quân mới khai thác Lạc Thư và đem áp dụng vào đời sống và sự sinh hoạt của nòi Lạc Việt trên mọi lĩnh vực như văn hóa, chánh trị, kinh tế, y học, lý số, kiến trúc, tín ngưỡng v.v…
Tóm lại Hà Đồ, Lạc Thư là “Đại Đồng Pháp” Âm Dương Ngũ Hành sanh, khắc, chế hóa để vạn vật được sống trong sự bình đẳng đại đồng, mở con đường qui nguyên hiệp nhứt.

 Hà Đồ vận động theo chiều thuận, ngoài tương sanh trong tương khắc như: Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim. Bên trong thì Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy (hình ngôi sao 5 cánh).
Lạc Thư vận động ngược chiều, bên ngoài tương khắc mà bên trong tương sanh. Thủy khắc Hỏa, Hỏa Khắc Kim, Kim khắc Mộc. Thổ số 5 là dương Thổ ở trung tâm điểm trung hòa giữa bốn hành, nó không khắc mà là nơi qui hiệp Ngũ Khí của 5 hành, nên theo luật tương sanh. Mộc sanh Hỏa, Kim sanh Thủy.
* Mỗi một hành trong Ngũ hành đều có tương quan với bốn hành theo luật sanh nhập, khắc nhập, sanh xuất, khắc xuất.
Thí dụ hành Thổ sanh nhập là Hành Hỏa
Khắc nhập là Hành Mộc
Sanh xuất là Hành Kim
Khắc xuất là Hành Thủy
 
Nhờ luật sanh nhập, khắc nhập, sanh xuất, khắc xuất tạo cho ngũ hành vận động theo luật sanh, khắc, chế hóa đã cho vạn vật được sống quân bình trong xã hội.
Thí dụ: Mộc khắc Thổ, Thổ sanh Kim để chế Mộc.
Thổ khắc Thủy, Thủy sanh Mộc để chế Thổ.
Các hành khác cũng y luật này mà Y học Đông phương đã áp dụng vào việc chữa bệnh rất thành công.
Thí dụ: Tỳ yếu tức là Hành Thổ trong người suy, muốn cho Tỳ Thổ vượng phải: Bổ Tỳ Thổ, Bổ Tâm Hỏa, Tả Phế Kim, Bình Can Mộc, thì Tỳ sẽ khỏe mạnh trở lại vì Ngũ hành Âm Dương trong người được quân bình.
Giải thích: Tỳ yếu phải trực tiếp bổ tạng Tỳ, nhưng chưa đủ phải biết cái gì sinh ra Tỳ Thổ, ấy là Tâm Hỏa, nên phải bổ Tâm Hỏa, nhưng bổ vào mà không Tả Phế Kim, vì Thổ sanh Kim thì Tỳ Thổ không thể vượng lên được, còn Can Mộc sanh Hỏa nên phải bình Can Mộc, Phép Bổ, Tả, Bình là cách chữa có công hiệu của Đông Y cổ truyền dựa theo Dịch lý.
Trái lại nếu Tỳ Thổ bịnh thiệt thì phải chữa ra sao?
Trước hết phải tả bản thân của Tỳ Thổ, rồi tả tâm Hỏa để hạn chế Hỏa không sanh Thổ, Bổ Phế Kim để Kim nuôi lại Thổ (con nuôi mẹ). Bình Can Mộc để Mộc không khắc Tỳ Thổ. Bệnh của các tạng phủ hư hay thực cũng đều áp dụng nguyên tắc Ngũ hành sanh, khắc, chế, chữa trị rất có công hiệu. Sách Đông y “Khí hóa luận” giải về Ngũ vận Lục Khí rất tinh tường, người Thầy thuốc học thông lý khí, chữa bệnh rất hiệu nghiệm.
Nếu đem số Lạc Thư ra mà bàn thì Lạc Thư từ 1 đến 9 số là số cửu trù, hay là cửu cung, cửu trùng, cửu thiên v.v… Trái lại nếu bỏ số 5 ở giữa, còn vòng ngoài thì 8 số còn lại là 8 ngôi của quẻ Dịch: Kiền Khôn, Chấn Tốn, Khảm Ly, Cấn Đoài. Tóm lại, Lạc Thư là một Đại đồng Pháp, một Thiên thi bởi Trời ứng cho loài người sống hiệp nhất với Trời, sống, hành động, tiến hóa, đúng theo luật Trời để xây dựng một nền văn minh “Thiên Nhân hiệp nhất”, thế giới đại đồng, bốn biển một nhà, năm châu chung chợ, không còn phân biệt màu da sắc tóc, chủng tộc tín ngưỡng, đặt con người ngang hàng cùng Trời Đất (Thiên, Địa, Nhân) tình huynh đệ đại đồng được phát triển và phủ trùm khắp cả địa cầu.


V. HỒNG PHẠM CỬU TRÙ

Những phép tắc lớn của Trời Đất, Đạo Dịch chia làm chín loài gọi là Hồng Phạm Cửu Trù.
Cửu trù là chín trù trong Thiên Hồng Phạm là một quan niệm đại quy mô về Vũ-trụ và vạn vật, tức là một Vũ-trụ quan tiêu chuẩn và một nhân sinh quan lý tưởng căn cứ vào sự quan sát Thiên-văn, Địa-lý và sự kinh nghiệm của cổ nhân, nói rõ ra là dựa vào Đạo Dịch mà sáng tạo.
Cửu trù là chín nguyên tắc căn bản dựa vào chín số của Lạc-Thư.
1. Ngũ Hành.                                                      6. Tam Đức.
2. Ngũ Sự                      5. Hoàng Cực.              7. Kê Nghi.
3. Bát Chánh.                                                     8. Thứ Trưng.
4. Ngũ Kỷ.                                                           9. Ngũ Phước, Lục Cực.
Chín nguyên tắc chính trên đây là khoa trị bình của nền Chính Trị học trong Đạo Dịch.
Cổ nhân đã áp dụng con số 9 trên mọi lãnh vực, như trên Trời thì họ đặt ra Cửu Thiên hay Cửu dã là 9 vùng Trời.
Bắc Phương là Huyền Thiên.                  Nam Phương là Viêm Thiên.
Đông Phương là Thương Thiên.             Tây Phương là Hạo Thiên.
Đông Bắc là Biến Thiên.                         Đông Nam là Dương Thiên.
Tây Bắc là U Thiên.                                 Tây Nam là Chu Thiên.
Trung Ương là Quân Thiên ()
9 vùng Trời lấy theo Lạc-Thư có Tứ Chính, Tứ Ngung và Hoàng Cực Trung ương.
Sách Từ Nguyên định nghĩa chín từng Trời là Cửu Trùng Thiên. Cửu Trùng là: Trời, Nhật, Nguyệt và Ngũ Hành Tinh, là thất trùng. Đó là: Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Kim Tinh Thiên, Mộc Tinh Thiên, Thủy Tinh Thiên, Hỏa Tinh Thiên, Thổ Tinh Thiên. Kế đó là Bát Trùng Thiên là Nhị Thập Bát Tú, Cửu Trùng Thiên là Tôn Động Thiên, từng Trời này thường tĩnh mịch bất động, đấy là chốn cung điện của Ông Trời, Ngọc Hoàng Thượng-Đế.
Tử Vi thì có Cửu Tinh: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân và Tả Phụ Hữu Bậc.
Ngày nay, Đạo Cao-Đài cũng dựa vào 9 số, đặt tên chín tầng Trời theo cơ tấn hóa.

1- Thanh Thiên, 2- Huỳnh Thiên, 3- Xích Thiên, 4- Kim Thiên, 5- Hạo Nhiên Thiên, 6- Phi Tưởng Thiên, 7- Tạo Hóa Thiên, 8- Hư Vô Thiên, 9- Hội Ngươn Thiên.
Từ Trời, Đạo Dịch đã đưa 9 số Lạc-Thư xuống đất, Trời có Cửu Tinh để điều khiển cơ Ngọc Hành. Đất có Cửu Châu để thành lập vạn bang. Người có cửu khiếu để khai thông trí huệ.
Như vậy ở cả ba tài: Trời, Đất, Người, con số 9 đều được áp dụng và có tương quan với nhau rất chặt chẽ.

Hồng Phạm Cửu Trù là tóm tắt nền minh triết của Lạc-Thư, phương pháp ứng dụng Đạo Dịch vào đời sống tinh thần vật chất, bao gồm Vũ-trụ nhân sinh trong một bản thể duy nhất. Tất cả những vấn đề đạo đức, chính trị, xã hội, giáo dục, được đúc kết trong cái khung Cửu Trù, thật là một nền triết học vĩ đại. Cho nên, Đức Khổng Tử đã nói: Đạo người lấy Chính Trị làm việc trọng đại Nhân Đạo chính vi đại.  
Chính Trị ở đây không nên hiểu chính trị đảng phái mà là một nền văn minh Đức Trị.
Đức Khổng Tử nói: Lấy Đức mà làm chánh trị, ví như ngôi sao Bắc Thần ở một chỗ mà tất cả các vì sao đều hướng về Vi chánh dĩ đức, thí như Bắc Thần cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi.
 Cho nên tìm hiểu bản tóm tắt của Cửu Trù này là nắm được then chốt của triết lý Thiên-Nhân hiệp nhứt”. Nó là một hiến chương dạy cách thờ Trời, và thay Trời mà xây dựng lại xã hội nhân sinh theo hướng bình đẳng đại đồng.
Trong Cửu Trù thì trù thứ 5 là quan trọng nhất, vì là trung tâm then chốt của 8 trù, nó bàn bề đức độ và tài năng lập trường của người làm vua, hay một thủ lãnh cai trị một quốc gia.
Bốn trù trước minh định những phương pháp đạt tới đức độ siêu việt.
Bốn trù sau trình bày những cách thể để giữ gìn đức độ siêu việt ấy.
9 Trù đối chiếu            Bát Quái Hậu Thiên    Vật Ứng.
Trù thứ nhất:      1- Ngũ Hành       Quẻ Khảm     Ngoại giới.
Trù thứ hai:         2- Ngũ Sự           Quẻ Khôn    Nội giới.
 Trù thứ ba:         3- Bát Chánh      Quẻ Chấn       Chính thể quốc gia.
Trù thứ bốn:       4- Ngũ Kỷ           Quẻ Tốn        Lịch Số.
Trù thứ năm:       5- Hoàng Cực     Ngũ Hoàng    Vũ-trụ.
Trù thứ sáu:        6- Tam Đức         Quẻ Càn         Xử thế.
Trù thứ bảy:        7- Kê Nghi          Quẻ Đoài     Chiêm nghiệm.
Trù thứ tám:        8- Thứ Trưng      Quẻ Cấn       Thời tiết.
Trù thứ chín:      9- Ngũ Phước         Quẻ Ly           Thưởng phạt.
      Lục Cực

PHẠM TRÙ THỨ NHẤT – NGŨ HÀNH.
Ngũ hành gồm có: 1 là THỦY, 2 là HỎA, 3 là MỘC, 4 là KIM, 5 là THỔ. THỦY thấm nhuần và chảy xuống, hỏa bốc cháy và bay lên, Mộc có thể cong lại, Kim có thể tùy nghi biến dạng, Thổ có thể gieo cấy. Thủy chảy xuống nên sinh ra vị mặn, Hỏa bốc lên nên sinh ra vị đắng, Mộc có thể cong ngay nên sinh ra vị chua, Kim có thể tùy nghi biến dạng nên sinh vị cay, Thổ có thể gieo cấy nên sinh vị ngọt (Nhất viết Thủy, Nhị viết Hỏa, Tam viết Mộc, Tứ viết Kim, Ngũ viết Thổ. Thủy viết nhuận hạ, Hỏa viết viêm thượng, Mộc viết khúc trực, Kim viết tòng cách, Thổ viết giá sắc. Nhuận hạ tác Hàm, Viêm thượng tác Khổ, khúc trực tác Toan, tòng cách tác Tân, giá sắc tác Cam).
Chữ Ngũ Hành là chữ thông dụng nhất, nhưng lại khó giải thích nhất, vì nó quá mơ hồ phức tạp, bản thân của nó bán hữu bán vô, vừa khí vừa hình tràn lan khắp trời đất, không thể nào nắm bắt được cái thực thể của nó.
- Theo Đạo Dịch thì Vũ-trụ vạn vật do một động lực Thái-Cực, phân ra Âm Dương, sanh ra Tứ Tượng, biến thành Ngũ Hành. Vậy, Ngũ Hành là năm năng lực vận động của Ngũ Hành khí (khí chất).
- Đứng về phương diện vật chất thì Ngũ Hành là năm yếu tố cấu tạo Vũ-trụ, hành Thổ Trung Cung là căn cơ mà cũng là đích của muôn vật.
- Xét về mặt không gian thì Ngũ Hành chiếm năm phương chính yếu là Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung ương. Xét về thời gian thì Ngũ Hành chia 5 thời đại khác nhau, năm mùa khác nhau, bốn mùa biến thiên bên ngoài, còn một mùa ở Trung ương hằng cửu, vừa là mùa hoàng kim khởi thỉ, mà cũng là mùa hạnh phúc lý tưởng lúc chung quy.
Ngũ Hành nếu không kể trung tâm điểm bên trong, thì còn lại là Tứ Tượng bên ngoài, tượng và hành đều là những ý niệm của Đạo Dịch về Vũ-trụ. Cho nên, Ngũ Hành bao gồm cả huyền cơ về bản thể và hiện tượng, nguyên lý về hằng cửu và vật lý biến hóa. Tứ Tượng là bốn hiện tượng tối sơ của Đạo Dịch, cổ nhân mượn bốn con thú tượng hình Tứ Tượng ở dưới đất gọi là Tứ Linh: Long, Lân, Qui, Phụng. Ở trên Trời, Tứ Tượng là bốn chòm sao: Thanh Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Huyền Vũ. Mỗi chòm sao có bảy sao, bốn chòm 28 sao, gọi là Nhị Thập Bát Tú trong vòng Châu Thiên Hoàng Đạo. Còn ngôi sao Bắc Thần ở trung tâm điều khiển các vì sao.
Âm Dương thuộc vô hình, vạn vật thuộc hữu hình, Ngũ Hành chen vào ở giữa hai lãnh vực đó, nên gọi nó là trung tâm liên lạc giữa vô hình và hữu hình, cũng như Linh-hồn và thể xác con người được ràng buộc với nhau là nhờ phần khí phách (khí thể). Tinh là vật chất (matière) liên hệ với Thần (Spirituel) là nhờ có khí (éther).
Âm Dương Ngũ Hành có đặc tính phổ quát, nên nó hiện diện khắp nơi, khắp cả trời đất, người và vạn vật. Nếu xét về phần vô hình thì Ngũ Hành là tay chân của Thái-Cực và Âm Dương. Nếu xét về mặt hữu hình thì Ngũ Hành là 5 nguyên tố tạo thành hình thể Vũ-trụ, con người và vạn vật.
Để quân bình âm dương và thể hiện sự tiến hóa của vạn vật qua cơ sở lý luận thì Ngũ Hành có 3 quy luật:
1. Quy luật tương sanh: Quy luật hỗ tương giúp đỡ nhau gọi là Ngũ Hành tương sanh. Tương sanh là giúp đỡ nhau để sanh trưởng bảo tồn như: Thủy sanh Mộc, Mộc sanh hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy.
2. Quy luật tương khắc: Tức là ức chế nhau, gọi là Ngũ Hành tương khắc. Thí dụ: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Tương khắc không tồn tại đơn độc, mà trong tương khắc là ức chế nhau để được tương sanh, do đó mà mọi sự vật mới phát triển và sanh trưởng.
3. Luật chế hóa: Chế hóa bao gồm cả tương sanh lẫn tương khắc, không có tương sanh làm sao vạn vật sinh sôi nảy nở, không có sự tương khắc thì sự phát triển thái quá làm mất sự quân bình âm dương là có hại. Từ bản thân con người cho đến vạn sự vạn vật được tồn tại và độc lập là nhờ hệ thống tự duy trì, tự điều hòa, tự tu chỉnh, tự phục hồi của luật sanh khắc chế hóa. Trong bản thân của mỗi vật luôn luôn có sự tác dụng điều chỉnh, cái nào suy thì tự bồi bổ hưng phấn, cái nào vượng đầy thì tự hạ giảm ức chế, không để thái quá và bất cập.
Mọi tác dụng hưng phấn hay ức chế đều được hồi tác để được điều chỉnh đúng mức ngay trong bản thân của mỗi sự vật, ta có thể nói đó là luật Trung-Hòa:
- Kim khắc Mộc – Mộc sanh Hỏa – Hỏa chế Kim.
- Mộc khắc Thổ – Thổ sanh Kim – Kim chế Mộc.
- Thủy khắc Hỏa – Hỏa sanh Thổ – Thổ chế Thủy.
- Hỏa khắc Kim – Kim sanh Thủy – Thủy chế Hỏa.
- Thổ khắc Thủy – Thủy sanh Mộc – Mộc chế Thổ.
Theo luật chế hóa mỗi hành đều có liên hệ bốn mặt.
Thí dụ: Hành Mộc               - Hành sanh ra nó là Thủy.
                                                - Hành nó sanh ra là Hỏa.
                                                - Hành nó khắc là Thổ.
                                                - Hành khắc nó là Kim.
Giải thích: Thủy là mẹ sanh ra Mộc là con, gầy dựng cho con Mộc là Hỏa mạnh, để chế bớt hành khắc Mộc là Kim. Như vậy Mộc vẫn duy trì được ngôi vị.
Theo luật chế hóa, mỗi hành có liên hệ 4 mặt.
 
HÌNH SANH KHẮC CHẾ CỦA NGŨ HÀNH.
 
Học thuyết Ngũ Hành còn có điên đảo, đảo điên.
Ngũ hành điên đảo là Ngũ Hành có thể sanh nghịch và khắc nghịch.
- Như Kim sanh Thủy, mà ngược lại Thủy cũng sanh Kim.
Thí dụ: Bệnh Phế nuy (Phổi teo khô héo) thì Kim táo, phải bổ Thận Thủy để cứu Phế Kim.
- Như Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Thủy.
Thí dụ: Bệnh Thận Thủy khô, phải làm cho Can Mộc mát để bổ Thận Thủy.
- Như Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Mộc.
Thí dụ: Can Hàn Mộc hư, cần phải ích Hỏa để làm ấm Can Mộc.
- Như Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Hỏa.
Thí dụ: Bệnh Tim hư, Phế đại suy, phải bổ Tỳ Thổ để dưỡng Tâm Hỏa.
- Như Thổ sanh Kim, Kim sanh Thổ.
Thí dụ: Bệnh Tỳ khí Thổ suy bại, phải ích khí bổ Phế Kim để dưỡng Tỳ Thổ.
- Như Kim khắc Mộc, Mộc khắc Kim.
Thí dụ: Can Mộc quá vượng làm hại Phế Kim.
- Như Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Mộc.
Thí dụ: Như bệnh Tỳ Thổ vượng thì Can Mộc phải suy.
- Như Thủy khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
Thí dụ: Bệnh Thận Thủy lạnh quá thì Tỳ phải hư.
- Như Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Thủy.
Thí dụ: Bệnh tướng Hỏa nung nấu thì Thận Thủy phải bị tiêu khô.
- Như Hỏa khắc Kim, Kim khắc Hỏa.
Thí dụ: Bệnh Phế khí đầy đủ thì Tâm Hỏa phải giáng.
Tóm lại Ngũ Hành là năm năng lực vận động tự nhiên trong Vũ-trụ, nó đối lập với nhau từng đôi một, Thủy đối với Hỏa, Kim đối với Mộc, mâu thuẫn, sanh thành, khắc chế, biến hóa cái nọ và cái kia mà kết quả là một thể tổng hợp vào Thổ, nên bốn hành kia đều nói về Tính mà hành Thổ nói về Đức, Đức là sự chứa đựng nuôi dưỡng muôn loài.
Phụ Trương Phạm trù thứ nhất, Ngũ Hành:
Học Dịch chúng ta nên tìm hiểu: Dịch có 3 nguyên lý bất dịch, giao dịch và biến dịch.
1. Bất dịch là ngôi 1, ngôi Thái-Cực, nguyên lý Vũ-trụ, Chơn Thần Thượng-Đế, chân lý tuyệt đối, ta có thể gọi là Vũ-trụ Thần Linh.
2. Giao dịch là âm dương Ngũ hành gọi là Vũ-trụ Khí.
3. Biến Dịch là Bát Quái Cửu Cung là hình tượng học, gọi là Vũ-trụ hình chất. Thần, Khí, Hình là 3 nguyên lý thống nhất trong một bản thể, ấy là Tam Nguyên Nhất Thể.
Nay ta muốn biết sự biến hóa của Ngũ Hành thì phải tìm vận và khí trong 10 Thiên Can và 12 Địa-chi. 10 Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, do ngũ vận mà có; 12 Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, là do Lục Khí mà ra. Vận và Khí luôn luôn đi cặp với nhau, tương tác tương phản, tương thôi, tương thành, để sinh hóa vạn vật trong Vũ-trụ. Cổ nhân đặt khí và hành đi đôi với nhau, ví dụ 12 tháng trong một năm để dễ hiểu.
 1. Khí Quyết Âm phong Mộc                      Tháng giêng và tháng 2.
2. Khí Thiếu Âm quân Hỏa                        Tháng 3 và tháng 4.
3. Khí Thiếu Dương tướng Hỏa (Thử)     Tháng 5 và tháng 6.
4. Khí Thái Âm thấp Thổ                            Tháng 7 và tháng 8.
5. Khí Dương Minh táo Kim.                      Tháng 9 và tháng 10.
6. Khí Thái Dương hàn Thủy.                   Tháng 11 và tháng 12.
Sáu khí gồm có: Phong, Hỏa, Thử, Thấp, Táo, Hàn.
Vì sao Ngũ Hành người ta lấy Kim làm đầu, gọi là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trong Định Mệnh Đồ có nói: Từ Kim ở cung Khôn xuất ra (Thổ sanh Kim) qua phương Tây làm Kim, lên phương Nam làm Hỏa, lại phương Đông làm Mộc, xuống phương Bắc làm Thủy, về Trung ương hóa làm Thổ. Trong Ngũ Hành có 2 cặp khắc nhau: Kim khắc Mộc, Thủy khắc Hỏa, nhờ nương vào Thổ mà được hòa nhau, Thổ Đức là nơi hóa giải các hành. Cổ nhân gọi cụm Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, có ý nói lên sự hòa giải hòa hiệp của các thế lực tự nhiên trong Vũ trụ, con người noi theo quy luật đó để sinh tồn. Cụm Ngũ-hành này là tiêu biểu cho “Ngũ Chi hiệp nhất”.
Trong Hà-Đồ, Lạc-Thư, Dịch mượn số lý để chứng minh sự sanh khắc chế hóa của Âm Dương Ngũ-Hành. Ví dụ: Nhất Lục Thủy (1+6) Thành Thủy, Nhì Thất Hỏa (2+7) thành Hỏa, Tam Bát Mộc (3+8) thành Mộc, Tứ Cửu Kim (4+9) thành Kim. Ngũ Thập Thổ (5+10) thành Thổ.
Qua phần vận và khí, cổ nhân mượn 10 Can và 12 Chi để giải thích sự sanh thành biến hóa của Ngũ-hành.
Ngũ hành tương sanh của Thập Thiên Can gồm có: Giáp Ất Mộc, Bính Đinh Hỏa, Mậu Kỷ Thổ, Canh Tân Kim, Nhâm Quý Thủy. Cổ nhân để hành Mậu Kỷ Thổ ở giữa 4 hành Kim Mộc Thủy Hỏa, các hành này nương tựa vào Thổ mà sanh thành biến hóa, cổ nhân đặt thành quy ước tương sanh, tương khắc của Ngũ-hành như sau:
1, 3, 5 là số sanh của Trời; 2, 4 là số sanh của Đất.
6,8, 10 là số thành của Đất; 7,9 là số thành của Trời.
Ví dụ:        1+6   = THỦY
                   2+7   = HỎA         Trong 5 hành đều có ẩn số 5
                   3+8   = MỘC          ở giữa là con số Trung-Hòa.
                   4+9   = KIM
                   5+10 = ThỔ

10 Thiên can của Ngũ Hành hóa khí cũng sắp đặt theo quy ước trên.
Giáp + Kỷ hóa ra  Thổ
Ất + Canh           = Kim
Bính + Tân        = Thủy
Đinh + Nhâm     = Mộc
Mậu + Quý         = Hỏa
Đợt đầu lấy 10 con số để diễn đạt lý sanh thành của Ngũ hành, lấy Thủy làm đầu.
Đợt 2 lấy 10 Thiên can để diễn đạt cơ mâu thuẫn hóa khí của Ngũ hành, lấy hành Thổ làm đầu. Cho nên trong 12 trực, Thủy và Thổ đều kiến tại Thìn. 12 trực gồm có: Kiên, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế.
Để biến hóa Ngũ hành, cổ nhân dùng quy luật âm dương của 10 Thiên can nghịch khắc để hóa thành.
Ví dụ:
1. Mộc khắc Thổ, lấy Giáp dương Mộc hiệp với Kỷ âm Thổ: Hóa ra Giáp Kỷ Thổ.
2. Kim khắc Mộc: Lấy Ất âm Mộc hiệp với Canh dương Kim hóa thành Kim vận.
3. Hỏa khắc Kim: Lấy Bính Dương Hỏa hiệp với Tân âm Kim hóa thành Thủy vận.
4. Thủy khắc hỏa: Lấy Đinh âm Hỏa hiệp với Nhâm dương Thủy hóa thành Mộc vận.
5. Thổ khắc Thủy: Lấy Mậu dương Thổ hiệp với Quý âm Thủy hóa thành Hỏa vận.
Can Giáp lấy can Kỷ            : Hóa Thổ.
Can Ất lấy can Canh           : Hóa Kim.
Can Bính lấy can Tân         : Hóa Thủy.
Can Đinh lấy can Nhâm     : Hóa Mộc.
Can Mậu lấy can Quý         : Hóa Hỏa.
Ngũ vận từ tương khắc mà được tương sanh như: Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa.
Còn Hà Đồ và Lạc-Thư thì từ tương sanh, nghịch lại thành tương khắc, sanh rồi khắc, khắc để sanh, nhờ quy luật Ngũ hành mà vạn vật trong Vũ-trụ được sanh hóa trường tồn bất diệt. Từ cơ sở Ngũ vận Lục khí, Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi phối hiệp trong 1 Giáp 60 năm mới giáp vòng, nên người ta đặt thành “Lục Thập Hóa Giáp”.
Lục thập hoa giáp có liên hệ đến chu kỳ sao Mộc và sao Thổ.
Sao Mộc liên hệ chu kỳ 12 năm. (Thập nhị Thần hành khiển trong 1 năm).
Sao Thổ liên hệ chu kỳ 30 năm. Hai sao này kết hợp 60 năm. Người ta gọi là “Thổ Thần”. Thổ Thần thì nhà nào cũng có thờ cả, đó là tín ngưỡng phổ biến của văn minh Đông Phương. Bội số chung nhỏ nhất của hai chu kỳ này là:
60 =  2 x 30 =   5 x 12, số 2 là chỉ cho Âm Dương, số 5 là chỉ cho Ngũ Hành, rồi áp dụng vòng trường sanh mà ta định mệnh hành. Vòng trường sanh có: Trường sanh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng.
Sau đây, tôi chép lại bài thơ Ngũ hành nạp âm của cổ nhân lưu truyền trên mấy ngàn năm để tiện việc tìm hiểu.
THI
Tý, Ngọ : Ngân, Đăng, Giá, Bích, Câu.
Thìn, Tuất: Yên, Mãn, Tự, Chung, Lâu.
Dần, Thân: Hán, Địa, Thiêu, Sài, Thấp.
Lục Giáp chi trung bất ngoại cầu.
 






 
Bài thơ ngũ hành nạp âm này quá siêu vi ẩn áo, khó giải thích cho tường tận. Câu thứ nhất:  Ngân Đăng, Giá bích Câu, Ngân là Bạc, Đăng là đèn, Giá là cái giá để đồ, Bích là cái vách, Câu là cái Móc. Câu này có nghĩa là trên vách có treo một cái trang để thờ một ngọn đèn là biểu tượng Thần Khí của con người (Hỏa và Kim), Thần Khí được an định sáng suốt thì mới đủ trí huệ mà tìm học Ngũ hành.
Trong câu này có: Kim, Hỏa, Mộc, Thổ, Kim, thiếu Thủy, người xưa gọi là Giáp rách, vì không đủ tính chất của 5 hành.
Nếu tìm lý sanh khắc thì thấy 3 khắc, 1 sanh như Hỏa khắc Kim, Kim khắc mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ lại sanh Kim.
Hoặc 1 khắc 3 sanh như: Kim khắc Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim.
Câu thứ 2: Yên, Mãn, Tự, Chung, Lâu. Câu này đặc biệt chú ý: Yên nghĩa là khói (Hỏa), Mãn là đầy (Thủy), Tự là Chùa (Thổ), Chung là Chuông (Kim), Lâu là cái Lầu (Mộc).
Câu này có nghĩa là trong chùa trên lầu chuông có khói hương thơm nghi ngút tung tỏa khắp nơi. Bí quyết câu này là nói lên sự hóa giải 5 hành để được thống nhất trong một bản thể (Ngũ hành hóa Khí), Ngũ Chi hiệp nhất. Câu thứ hai này có đủ 5 hành: Hỏa, Thủy, Thổ, Kim, Mộc.
Người xưa gọi là Giáp lành, có đủ 5 thế lực Ngũ-hành.
Nếu tìm lý sanh khắc thì thấy: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy – 5 lần khắc.
Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ. Năm hành tương sanh, sanh khắc đều được quân bình, quân bình là lý tưởng cao cả, là mục tiêu tiến hóa của Ngũ hành.
Câu thứ 3: Hán, Địa, Thiêu, Sài, Thấp. Hán Địa là đất Hán (Trung Quốc), Thiêu là đốt nóng, Sài là cây gỗ, Thấp là ẩm ướt. Câu này dạy người ta dùng đất nước củi lửa làm ra đồ đạt để dùng, ví dụ như đồ gốm, đồ sứ v.v… đem ngũ hành áp dụng vào cuộc sống.
Câu này chỉ có 4 hành Thủy, Thổ, Hỏa, Mộc, Thủy.
Nên người ta cũng gọi là Giáp rách (thiếu đi một hành) tìm hiểu lý sanh khắc thì ta thấy:
Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ khắc Thủy. 3 tương sanh, 1 tương khắc.
Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, mộc khắc Thổ, Thủy sanh mộc. 3 hành tương khắc, 1 hành tương sanh.
Đọc câu thơ ngũ hành nạp âm, ta thấy cổ nhân chia làm 3 giai đoạn:
1. Con người phải ổn định Thần Khí, tập trung tư tưởng sáng suốt mà học hiểu ngũ hành.
2. Nắm vững quy luật Ngũ hành mà hành động trên mọi lĩnh vực.
3. Biết rõ tính chất Ngũ hành để làm ra đồ vật, công dụng trong nhân sinh xã hội.
Nói về hai Giáp lành, là Giáp Thìn và Giáp Tuất, có đủ 5 hành; sách gọi Thìn là Thiên La, Tuất là Địa Võng. Trên có lưới Trời bủa, Dưới có lưới đất giăng, con người ở giữa Trời Đất, hành động trái luật Ngũ hành thì ắt bị hành phạt, không tránh đâu cho khỏi, cho nên con người sống phải biết hòa hợp với đất trời để bảo tồn cơ sanh hóa, ô nhiễm môi trường là gì? Có phải bội thiên nghịch địa chăng?
Hãy xem 2 hình vẽ định mệnh đồ.
Và Lục Thập hoa Giáp để cảm thông luật Ngũ-hành.
  Định Mệnh Đồ:
“Tý, Ngọ: Ngân, Đăng Giá Bích Câu (Kim, Hỏa, Mộc, Thổ, Kim).
 Tuất Thìn: Yên Mãn Tự Chung Lâu (Hỏa, Thủy, Thổ, Kim, Mộc).
 Dần Thân: Hán Địa Thiêu Sài Thấp (Thủy, Thổ, Hỏa, Mộc, Thủy).
 Lục giáp Chi Trung bất ngoại cầu”.
Bản đồ Lục Thập hoa giáp:
1. Giáp Tý           : Hải, Lư, Lâm, Lộ, Kiếm.
2. Giáp Tuất       : Sơn, Giang, Thành, Lạp, Dương.
3. Giáp Thân     : Tuyền, Ốc, Tích, Tòng, Trường.
4. Giáp Ngọ        : Sa, Sơn, Bình, Bích, Bạch.
5. Giáp Thìn      : Phúc, Hà, Dịch, Thoa, Tang.
6. Giáp Dần       : Khê, Sa, Thiên, Thạch, Đại.

Giáp Tý:
HẢI TRUNG KIM
LƯ TRUNG HỎA
ĐẠI LÂM MỘC
LỘ BÀNG THỔ
KIẾM PHONG KIM
Giáp
Ất
Sửu
Bính
Dần
Đinh
Mẹo
Mậu
Thìn
Kỷ
Tỵ
Canh
Ngọ
Tân
Mùi
Nhâm
Thân
Quý
Dậu











Giáp Tuất:
SƠN ĐẦU HỎA
GIÁNG HẠ THỦY
THÀNH ĐẦU THỔ
BẠCH LẠP KIM
DƯƠNG LIỄU MỘC
Giáp
Tuất
Ất
Hợi
Bính
Đinh
Sửu
Mậu
Dần
Kỷ
Mẹo
Canh
Thìn
Tân
Tỵ
Nhâm
Ngọ
Quý
Mùi











TUYỀN TRUNG THỦY
ỐC THƯỢNG THỔ
TÍCH LỊCH HỎA
TÒNG BÁ MỘC
TRƯỜNG LƯU THỦY
Giáp
Thân
Ất
Dậu
Bính
Tuất
Đinh
Hợi
Mậu
Kỷ
Sửu
Canh
Dần
Tân
Mẹo
Nhâm
Thìn
Quý
Tỵ










Giáp Thân:

TUYỀN TRUNG THỦY
ỐC THƯỢNG THỔ
TÍCH LỊCH HỎA
TÒNG BÁ MỘC
TRƯỜNG LƯU THỦY
Giáp
Thân
Ất
Dậu
Bính
Tuất
Đinh
Hợi
Mậu
Kỷ
Sửu
Canh
Dần
Tân
Mẹo
Nhâm
Thìn
Quý
Tỵ

Giáp Ngọ:
SA TRUNG KIM
SƠN HẠ HỎA
BÌNH ĐỊA MỘC
BÍCH THƯỢNG THỔ
KIM BẠCH KIM
Giáp
Ngọ
Ất
Mùi
Bính
Thân
Đinh
Dậu
Mậu
Tuất
Kỷ
Hợi
Canh
Tân
Sửu
Nhâm
Dần
Quý
Mẹo











Giáp Thìn:
PHÚC ĐĂNG HỎA
THIÊN HÀ THỦY
ĐẠI DỊCH THỔ
THOA XUYẾN KIM
TANG ĐỐ MỘC
Giáp
Thìn
Ất
Tỵ
Bính
Ngọ
Đinh
Mùi
Mậu
Thân
Kỷ
Dậu
Canh
Tuất
Tân
Hợi
Nhâm
Quý
Sửu











Giáp Dần:
ĐẠI KHÊ THỦY
SA TRUNG THỔ
THIÊN THƯỢNG HỎA
THẠCH LỰU MỘC
ĐẠI HẢI THỦY
Giáp
Dần
Ất
Mẹo
Bính
Thìn
Đinh
Tỵ
Mậu
Ngọ
Kỷ
Mùi
Canh
Thân
Tân
Dậu
Nhâm
Tuất
Quý
Hợi










 
TRÙ THỨ HAI: NGŨ SỰ

Ngũ sự: 1 là Mạo, 2 là Ngôn, 3 là Thị, 4 là Thính, 5 là Tư.
1. Mạo là dáng điệu, dáng điệu thì nên cung kính.
2. Ngôn là nói năng, nói năng thì phải hợp tình hợp lý.
3. Thị là trông nhìn, trông nhìn nên tỏ rõ.
4. Thính là nghe, nghe ngóng phải cho tinh tế.
5. Tư là suy nghĩ, suy nghĩ phải cho thấu suốt.
          - Hễ cung kính thì trang nghiêm.
          - Hợp tình hợp lý thì trật tự công bằng.
          - Tỏ rõ sáng suốt thì sanh tánh khôn ngoan.
          - Tinh tế thì có nhiều mưu lược.
          - Thấu suốt là hiểu tới chỗ sâu xa mầu nhiệm là người thánh thiện.
 
Nhị: - Ngũ Sự: Nhất viết Mạo, Nhị viết Ngôn, Tam viết Thị, Tứ viết Thính, Ngũ viết Tư; Mạo viết Cung, Ngôn viết Tòng, Thị viết Minh, Thính viết Thông, Tư viết duệ, cung tác túc, tùng tác nghệ, minh tác triết, thông tác mưu, duệ tác thánh.
  Trù thứ hai này Thánh-nhân muốn dạy cho những ai muốn ra trị nước, bình thiên hạ, tất phải là người hiền thánh minh triết. Con người biết hướng nội tâm, nhìn lại bản thân mình tinh luyện con tim, khối óc, các quan năng cho tinh minh sáng suốt, tình yêu thương chan hòa khắp vạn vật như ánh sáng, không khí, thấm nhuần sự sống đến muôn loài.
Nguyên tắc làm chánh trị trước phải chính kỷ rồi mới trị nhân, muốn trị người trước phải trị mình. Đức Khổng Tử nói: “Người nào sửa trị được mình, đứng ra cai trị thiên hạ cũng chẳng khác gì”. Cho nên, Ngài dạy: Từ bậc vua chúa cho đến dân dã đều lấy sự sửa mình làm căn bản (Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân nhất thị giai dĩ tu thân vi bản).
Vậy muốn trị mình trước phải khắc Kỷ phục lễ, nếu không trừng trị được thói hư tật xấu, những hành vi tàn bạo, những dục vòng tham lam, sân si ái ố, ích kỷ tư tâm, tổn nhân hại vật, lôi bè kéo đảng tranh quyền đoạt lợi thì không nên tham chính, vì những tánh tình và hành vi căm thù bất hảo ấy sẽ làm hại dân hại nước. Quốc gia xã hội không bao giờ chấp nhận những hạng người ấy.
Thánh-nhân có ý gắn Ngũ Sự của con người có tương quan với Ngũ-hành của Trời-Đất, vì Đạo Dịch đã bảo: Nhân thân con người là Tiểu Vũ-trụ, nghĩa là trong thân con người có sự chuyển hóa hành khí y như Vũ-trụ. Dưới đây, ta lần lượt tìm phăng Ngũ sự liên đới với Ngũ-hành.
1. MẠO: Là dáng điệu, là hình dung tướng mạo, nó thuộc về tạng Can (gan), hành Mộc, thời gian chủ về mùa xuân, ở phương Đông, quẻ của nó là Chấn, Tạng của nó là Kinh Túc Khuyết Âm, phủ của nó là Túc Thiếu Dương (đởm), chữ của nó là Giáp Ất, màu nó xanh, vị nó chua, lỗ thông nó là con mắt, số sanh thành của nó là 3+8, tánh của nó là hay tức giận, Đức của nó là Nhân.
2. NGÔN: Lời nói phải trung thực như hơi thở vào thở ra vậy. Tiếng nói thuộc về Phế Kim, thời gian chủ về mùa thu, ở phương Tây, quẻ của nó là Đoài, Tạng của nó thuộc Kinh Thủ Thái Âm (Phổi), phủ của nó thuộc Kinh Thủ Dương Minh (Ruột già), chữ của nó là Canh Tân, màu nó trắng, vị nó cay, lỗ thông của nó là lỗ mũi, số sanh thành của nó là 4+9, tính của nó khô ráo (táo), tình của nó hay buồn rầu, Đức của nó là Nghĩa.
3. THỊ: Là quan sát, ngắm nhìn thuộc về Tâm Hỏa, thời gian chủ về mùa hạ, phương Nam, quẻ của nó là Ly, tạng phủ của Tâm là Thủ Thiếu Âm (Tâm) Thủ Thiếu Dương (Tiểu Trường), chữ của nó Bính Đinh, màu của nó đỏ, vị nó đắng, lỗ thông của nó là cái lưỡi, số sanh thành của nó là 2+7, tính của nó thì nóng, tiếng của nó là cười vui, tim là nơi Thần ở để biến hóa, tính của nó là biến động lo toan đủ thứ, Đức của nó là Lễ.
4. THÍNH: Nghe ngóng thuộc về Thận Thủy, thời gian chủ về mùa Đông, ở phương Bắc, quẻ của nó là Khảm, tạng phủ của nó thuộc Kinh Túc Thiếu Âm (Thận), Túc Thái Dương (Bàng quang), chữ của nó là Nhâm Quý, số sanh thành của nó là 1+6, màu của nó đen, vị nó mặn, lỗ thông của nó là lỗ tai, tiếng của nó là run sợ, tánh của nó là lạnh. Thận là nơi chứa Tinh, ý chí của nó là sợ sệt, Đức của nó là Trí, muốn nghe ngóng cho thông suốt thì phải bảo Tinh, nuôi chánh khí ở Thận, đừng để tẩu lậu phung phí tinh lực, thận bị thương tổn thì tai điếc, mắt mờ.
5. TƯ: Là suy nghĩ, tư duy, suy nghĩ ưu tư thuộc về Tỳ Thổ, Tỳ cầm giữ máu, làm ấm năm Tạng, thời gian thuộc về trưởng hạ (cuối mùa hạ). Nó thuộc về Trung-ương sanh ra thấp (ẩm ướt), kinh khí tạng phủ của nó là Túc Thái Âm (lá lách), Túc Dương Minh (bao tử), chữ của nó là Mậu Kỷ, số sanh thành của nó là 5+10, màu nó vàng, vị nó ngọt, lỗ thông của nó là miệng. Tỳ thuộc về ý chí nên thường tư lự, suy nghĩ, Đức của nó là Tín Thành.
Đạo gia gọi Tỳ là Huỳnh Đình, Huỳnh là màu vàng ở Trung-ương, Đình là ở giữa bốn phương.
Ngũ sự đối với Trời đất là năm hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đối với con người là năm tạng. Mỗi tạng đều chứa: Thận chứa Tinh, Tâm chứa Thần, Can chứa Hồn, Phế chứa Phách, Tỳ chứa ý chí. Năm nguyên khí này biết tu luyện thành 5 vị Đế-Vương, Ngũ khí triều nguyên, phục vụ đắc lực cho Chơn Thần, năm giác quan trở nên sáng suốt, con người trở nên hoàn hảo thánh thiện. Muốn giữ năm nguyên khí của ngũ tạng cho được sung mãn thì phải giữ 5 giới cấm: 1- Bất sát sanh, 2- Bất du đạo, 3- Bất tà dâm, 4- Bất tửu nhục, 5- Bất vọng ngữ.
1. Nếu chẳng giữ trọn giới cấm sát sanh thì không có lòng Nhân, không Nhân thì khuyết hành Mộc, ở Trời sao Tuế Phá chẳng an, ở đất thì Đông phương có tai nạn, ở người thì khí ở Can Đởm có hại.
2. Nếu sanh tâm trộm cướp thì bất Nghĩa, không Nghĩa thì khuyết hành Kim, ở Trời thì sao Thái Bạch chẳng an, ở đất thì Tây phương có tai nạn, ở người thì khí ở Phế và Đại-trường có hại.
3. Sanh lòng tà dâm thì mất Lễ, không Lễ thì khuyết hành Hỏa, ở Trời sao Huỳnh Hoặc chẳng an, ở đất thì Nam phương có tai nạn, trong thân người thì Tâm và Tiểu-trường có hại.
4. Nếu uống rượu say sưa thì mất Trí, mất trí thì khuyết hành Thủy, ở tại Trời sao Thần Tinh chẳng an, ở tại đất Bắc phương có tai nạn, trong thân người tại Thận Thủy và bàng quang có hại.
5. Nếu nói dối thì mất Tín, không Tín thì khuyết hành Thổ, ở tại Trời thì sao Trấn Tinh chẳng an, ở tại đất thì Trung ương có tai nạn, trong thân người thì khí ở Tỳ- vị có hại. Đây là mối tương quan liên đới báo ứng giữa Ngũ-hành, Ngũ-giới, Ngũ-tạng, để biết bệnh đau, họa phước, tốt xấu.
Thầy Mạnh Tử nói: Nghe ai thốt ra lời bất công, ta biết rằng Kẻ ấy bị lòng tư dục che áng.
Nghe ai thốt ra lời phóng đãng, ta biết tâm lý kẻ ấy bị chìm đắm trong đam mê nhục dục.
Nghe ai thốt ra lời gian ác, ta biết lòng dạ kẻ ấy bất chính, bất lương.
Nghe ai thốt ra lời ngu si đần độn, ta biết tâm trí kẻ ấy cùng quẫn, thất chí, thất tình.”
Người xưa rất chú trọng đến lời ăn tiếng nói, vì hình dáng tướng mạo, cách đi đứng nằm ngồi nó phản ảnh tâm hồn con người tốt xấu, hung dữ, hiền lành, nên xem tướng biết tâm tánh người là vậy.
Nay ta nên lấy lời Đức Khổng Tử dạy để làm phép tu thân. Đức Khổng Tử nói: Người quân tử có 9 điều xét nét:
1. Khi trông thì cố trông cho minh bạch.
2. Khi nghe thì lắng nghe cho tỏ rõ.
3. Sắc mặt lúc nào cũng giữ cho ôn hòa.
4. Tướng mạo giữ cho khiêm cung.
5. Nói năng thì trung thực giữ cho thành tín.
6. Làm việc thì thận trọng kính cẩn.
7. Có đều nghi hoặc thì phải hỏi han cặn kẻ.
8. Khi giận thì phải nghĩ đến sự hoạn nạn có thể xảy ra.
9. Khi thấy mối lợi liền nhớ đến điều nghĩa.
Sau khi tìm hiểu trù một và trù hai, ta nhận thấy có sự tương quan Ngũ-hành và Ngũ-sự, đem cái quy luật tự nhiên của Trời áp dụng vào nhân sự, làm cho Thiên Nhân hiệp nhất, không còn cách biệt giữa nội giới tâm linh và ngoại giới thiên nhiên, kết quả đạt được sự hiểu biết thấu suốt ấy là Thánh vậy.


PHẠM TRÙ THỨ BA: BÁT CHÁNH

Một khi con người tìm hiểu được ngoại giới thiên nhiên và nội giới tâm linh, thấu suốt thông hội lý Tam Tài Trời, Đất, Người vẫn chưa đủ, cần phải đem những điều hiểu biết ấy áp dụng thực tế vào nhân sinh xã hội, ấy là trù thứ ba “Bát Chánh”.
Bát Chánh là tám cương mục, là khởi điểm cho công việc tổ chức Quốc-gia xã hội.
Bát Chánh mà nói đến nông dụng là đặc biệt chú trọng đến vấn đề nhân sinh: Ăn mặc và của cải (Thực và Hóa) là nền tảng của xã hội, là quá trình sản xuất kinh tế.
Bát Chánh gồm có:
1. Thực là ăn uống.
2. Hóa là của cải.
3. Tự là cúng tế.
4. Tư không: là quản lý đất đai, lo việc canh nông, tài chánh.
5. Tư đồ: Quản lý sự giáo dục, lo khai hóa dân trí.
6. Tư khấu: Quản lý về hình luật, tư pháp, an ninh trật tự.
7. Tiếp tân: lo việc ngoại giao, lễ nghi tiếp khách.
8. Sư: Lo việc binh bị, trừ gian khử bạo, giữ nước chống ngoại xâm.
* Mục 1, 2 là Thực và Hóa:
Người làm chánh trị là người biết thương dân, nuôi dân. Trước hết lo cho dân có cơm ăn no, áo mặc ấm, nhà ở để che mưa nắng, bệnh tật có thuốc men, nuôi dưỡng nhân dân có đủ sức khỏe tráng kiện. Trước mắt dân đừng để kẻ có chức có quyền, hà hiếp nhân dân, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, nhà cao cửa rộng, lên xe xuống ngựa, vợ con kẻ hầu người hạ, hưởng thụ quá mức; còn dân thì nghèo khổ xác xơ, đói cơm rét áo, con tớ vợ công, bán khố cố bành, một tất đất cắm dùi không có, họ sống lang thang xó chợ, đầu đường, thất nghiệp ăn xin, thân hình ốm yếu, xanh xao vàng vọt. Người làm chánh trị phải biết dân giàu nước mạnh, dân yếu nước yếu, dân đau ngước bại hoại, dân chết nước điêu tàn, dân là hồn chung của nước, mà dân như thế còn chi nữa quốc gia bờ cõi. Thầy Mạnh Tử đã nói: “Dân vi quý, xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh”, nghĩa là phải biết dân là quý, lo cho dân trước tiên, nước nhà liệt vào hạng thứ hai, còn chính phủ thì nên xem nhẹ hơn, liệt vào hàng thứ yếu.
Ngày nay, trên thế giới, nước nào cũng đề ra mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, tự do, hòa bình, hạnh phúc”, nhưng thử hỏi có mấy nước đạt được mục tiêu ấy?
Trong Kinh Cao-Đài có mấy câu có thể giác ngộ lòng người xây dựng xã hội đại đồng, bình đẳng, tự do như sau:
          “Của đời chung mặc chung ăn,
Vui cùng chung hưởng, khổ hằng có nhau.”
Hay là:
          “Cùng nhau giúp khó trợ nghèo,
Hưởng chung cơm áo, chia đều khổ vui.”
                     Thánh giáo Đức Trần Hưng Đạo dạy:
“Tâm không, muôn vật đều không,
Chung nhau hưởng phước Đại-đồng nơi nơi.
                                  Dưới chế độ không người nô lệ,
                                  Ngoài dã lâm không kẻ quan cô;
                                         Không còn giai cấp tranh đua,
                             Của người không lấy, gió mưa điều hòa”.
- Xã hội mà người tín đồ Cao-Đài ước mơ là xã hội lý tưởng, mong có ngày thực hiện được.
Người cai trị dân nên thực hiện các điều sau đây:
1. Quân phân ruộng đất cho dân theo lẽ công bằng hợp tình hợp lý.
2. Dạy dân biết lao động và có nghề nghiệp.
3. Không được bắt dân làm phu không trả tiền.
4. Không được thu thuế quá nặng, dân không đóng nổi, thu tóm tài chính trong nước, ưu đãi một số người lãnh đạo hay bè đảng riêng.
5. Khuyến khích nhân dân sản xuất thật nhiều của cải, biết dành dụm tiết kiệm không tiêu pha phung phí.
6. Khuyến khích tự do phát triển công, nông, thương, ngư nghiệp và các ngành tiểu thủ công nghệ…
7. Tiết chế những người giàu có, nâng đỡ kẻ nghèo, lập quỹ an sinh xã hội và các quỹ từ thiện xã hội.
8. Chính quyền nên lấy lòng dân không nên lấy của cải của dân (tài tụ dân tán).
Mục thứ 3: Tế Tự.
Trong công cuộc trị dân, Thánh nhân xưa rất quan tâm đến vấn đề tế lễ thờ tự, vì thế trong Bát Chánh, việc Tế Tự đứng vào hàng thứ ba, ngay sau vấn đề cơm áo, bạc tiền, vì lo cho dân no ấm, có của cải, chưa đủ, cần dạy dân phải có tín ngưỡng thờ Trời. Ngày nay Hiến Chương Liên Hiệp quốc đã có mục tự do Tôn-Giáo, tự do Tín-ngưỡng, nên Chính-phủ các nước phải tôn trọng quyền tín ngưỡng thiêng liêng của con người, không một ai có quyền xâm phạm đến.
Con người được sinh ra và lớn lên, sống trên cõi hồng trần này thật là duyên phước lớn lao, được cái vinh dự làm người sánh cùng Trời Đất, lẽ nào ta không tìm biết ta là ai? Đâu phải ta là cái xác thịt cấu tạo bởi xương thịt da gân, lục phủ ngũ tạng, mà chính ta là một Thần Linh mầu nhiệm có nhiều quan năng đặc biệt, trực cảm, trực giác độc đáo, có thể thông công cùng Thượng-Đế. Ta phải tìm biết ta có hai phần: Phần xác thịt và phần Linh-hồn. Phần xác dù cho được làm vua làm tướng cũng chỉ được một thời rồi biến mất, người xưa có thơ:
                                 Kìa những kẻ ngồi trên thiên hạ,
                          Hống hách oai, quyền đã ngang tàng;
                               Hầu trong kỵ nữ muôn ngàn,
                   Vệ ngoài nha trảo rộn ràng lửa binh,
                          Rồng chầu mạng trước đền vân phủ,
                          Quân hầu thân có đủ võ văn;
                               Mà nay một nắm mộ lăng,
                   Sương gieo nắng táp, bóng trăng soi chồn.
Từ khi cất tiếng chào đời, con người cũng chỉ mình trần thân trụi, đến lúc thành nhân, may mắn gặp thời có đủ quyền cao chức trọng, phú quý vinh hoa, vợ đẹp con xinh, tưởng mình là Thần Tiên tại thế, uy quyền hống hách, coi dân như cỏ rác, ai ngờ thân phận và địa vị của mình chỉ là cá nằm trên thớt, gà nhốt trong lồng bên chảo nước sôi! Biết bao kẻ mạnh như voi rồi mềm như chuối, cũng lắm người nằm trên đống bạc đống vàng, chẳng bao lâu hóa ra cơ hàn bần tiện. Thánh ngôn dạy: “Kiếp người sống tạm, cái xuân xanh chẳng đợi người, mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, trải bao thời gian Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn, con đường hy vọng không biết đâu là tột cùng, mà bước đời xem đà mòn mỏi. Cái chết vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly, pha màu tử biệt, làm cho sự  vui vẻ, giàu sang, danh vọng, hạnh phúc trần gian hóa ra giấc mộng Huỳnh-lương. Rồi đây vĩnh biệt ngàn năm tội tình muôn kiếp, Đài Nghiệt Cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ mà chịu đày đọa đời đời kiếp kiếp.”
Ngày nay gặp thời hạ ngươn mạt pháp, nhân loại khắp trên mặt địa cầu không riêng một ai được an tịnh, không trừ một ai tránh khỏi luật tuần hoàn biến đổi, tất thảy phải quay theo cơ luân chuyển của tạo đoan, năm châu chung chịu trong vòng khói lửa binh đao, người người phải chôn chặt trong ai sầu biển khổ, vũng lửa núi bom, cái thảm họa của đời đã gây nên vô tận khổ đau cho muôn triệu sanh linh, trăm ngàn nguy khổn.
Thế mà đời có mấy ai biết tỉnh ngộ hồi tâm tìm thấy tai họa mỗi ngày do đâu mà có? Lại còn cố làm cho yên, hàng cho được. Càng cố bao nhiêu, càng diễn hoài bi kịch mỗi ngày mỗi thêm chồng chất. Tấn tuồng oái oăm bí hiểm trong thiên hạ lúc bấy giờ, nhìn tới ngó lui, dòm qua ngoảnh lại cũng không biết trông vào nơi nào, kẻ nào tìm phương giải cứu. Người đời muốn cứu giải tình trạng khổ sở cho nhân loại bèn nghĩ ra mưu này chước nọ, phe đảng cho đông, gươm súng cho nhiều, lý luận cho hay, tiền bạc cho đủ, để giải quyết tình hình thế giới khổ đau. Còn mưu mưu, chước chước, tính tính, lo lo thì nhân loại còn chết nhiều đói nhiều, khổ sở lớn, bởi không hiểu nguyên nhân: Không có đức tin Trời, nên thiếu đạo đức và mất tình thương yêu đồng bào nhân loại, mà mất đức tin Trời, thì Linh tánh con người cũng mất theo, con người chỉ còn biết cam tâm làm nô lệ cho vật chất khiến sai, dục vọng dục tình lôi cuốn.
Thử nghĩ kiếp người khi chết để lại được những gì?
          “Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì!”.
Cho nên điều thứ ba Bát Chánh dạy dân Thờ Trời, biết tế tự là vì Linh-hồn con người là do Trời ban cho. Thượng-Đế là khối Đại-Thần-Quang, con người là Tiểu Thần Quang, Thượng-Đế là Đại Hồn, con người là Tiểu Hồn. Ngày xưa, Trời đã được nhân dân tôn là Ngọc Hoàng Thượng-Đế, Đất là Địa Mẫu, hay là Diêu Trì Kim Mẫu. Xuân Thu nhân dân đều có tổ chức lễ tế Trời Đất. Con người sau khi hoàn thành cơ tấn hóa, nghĩa là con người đã được hoàn thiện, thì Hồn sẽ về Trời, còn thân xác trả lại cho Đất. Kinh Tuyệt Khí có câu:
          “Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh,
  Xác đất sanh đến lượt phục hoàn.”
Dân tộc Việt Nam đã có truyền thống thờ Trời từ khi mới lập quốc. Nhà nào cũng có treo Bát Quái Tiên Thiên thờ Trời, Trời qua biểu tượng ngôi Thái-Cực. Trời trong Đình chùa, miếu thất, Trời trong số 15 của Hà Đồ, Trời trong số 5 của Lạc-Thư, Trời trong Tâm con người.
Vua thì tế Trời để tỏ lòng kính sợ oai Trời, ấy là lễ Tế Giao, mong phối hợp với Trời, để trị dân theo ý Trời.
Ngày nay, đức tin Trời phổ quát hơn, Đạo Trời tại ở thứ dân, Trời ở trong lòng dân, mỗi người dân là con Trời (Thiên-Tử), ai ai cũng có quyền tin thờ Trời và tế Trời.
Ngày nay, Trời đến với nhân loại bằng biểu tượng Thiên-Nhãn, ấy là Mắt Trời, và Ngài có dạy:
“Nhãn thị chủ Tâm,
  Lưỡng quan chủ tể,,
  Quan thị Thần,
  Thần thị Thiên,
  Thiên giả ngã dã.”
Tạm dịch:
Con mắt là chủ cái lòng,                        
Cũng là Ông chủ biết trong thấy ngoài.                  
          Nghe,  thấy, biết, THẦN  không hai,    
THẦN là Trời đó, có ngoài người đâu.         
          Xét xem mọi lẽ cao sâu,                          
Trời–Ta hiệp nhất, Pháp mầu công phu.
Người làm chánh trị muốn sửa đời trước phải tu sửa lòng mình, phải tin có Trời, và dạy dân tin thờ Trời, biết kính sợ Trời, làm nghịch lẽ Trời là phải chịu tai họa.
Con người sinh ra đời, Trời đã phú bẩm cho một Thiên tính toàn thiện (nhân chi sơ tánh bổn thiện), nhưng vì vật dục khiến sai, hoàn cảnh lôi kéo, vì đói khát, vì dốt nát thù hận nên dần dà sa vào đường tội lỗi. Tuy nhiên, Lương-tâm họ có thể bị lu mờ, chớ không bị hủy diệt, khi nhà cầm quyền giáo hóa cho họ có đức tin Trời, tu tỉnh theo Đạo Trời, thì họ có hy vọng phục hồi Lương- tâm Linh tánh, trở lại đường lành, thành một công dân lương thiện. Cho nên, tiếp sau tế tự là việc giáo dục khai hóa dân trí. Người cầm quyền lo cho dân về mặt Dân Sinh, kinh tế xã hội, dạy dân biết thờ Trời, biết tu thân tề gia, xây dựng một nếp sống đạo đức lành mạnh, ấy là lo cho dân có Đạo đức. Tiếp đến là phải mở mang dân trí, nâng cao trình độ học thức trí thức cho dân, mở mang nhiều trường ốc, cải thiện nền giáo dục nhân bản, đào tạo con người có đủ hai mặt lý trí và tâm linh. Đạo học và khoa học, cùng nhau song tiến để con người có một nếp sống hài hòa giữa tâm hồn và thể xác, tài đức con người được phát triển đồng đều, tình người được truyền cảm khắp nơi, xã hội sẽ giảm bớt tội ác, nhân dân mới mong hưởng được hòa bình hạnh phúc.
Tóm lại, muốn cho dân giàu nước mạnh, xã hội có dân chủ tự do, đất nước hòa bình, nhân dân hạnh phúc, thì phải thực hiện ba tiêu chuẩn: Dân Sinh, Dân Đức, Dân Trí, ấy là mục đích căn bản. Việc tiếp theo là phải bảo vệ tánh mạng, tài sản của nhân dân khỏi bị uy hiếp, cướp bóc, nên phải tổ chức guồng máy an ninh trật tự. Nhà nước cũng phải đặt vấn đề ngoại giao rộng rãi, tiếp tân, xử thế trên nguyên tắc bình đẳng, đưa dân tộc đến nơi khai phóng, không nên bế quan tỏa cảng hoặc nuôi dưỡng tinh thần dân tộc quá khích căm thù.
Sau hết là tổ chức Binh Bị để có một sức mạnh bảo vệ Quốc-gia chống ngoại xâm. Quân-đội phải đặt quyền lợi Dân-tộc, Tổ-Quốc lên trên quyền lợi Đảng phái Chánh-trị.

TRÙ THỨ TƯ: NGŨ KỶ
Ngũ kỷ là năm kỷ: 1- năm, 2- tháng, 3- ngày, 4- các sao, các độ số, 5- phép làm lịch.
Khoa Thiên văn học, lịch số học dựa cơ sở trên Âm Dương và Ngũ hành, cụ thể bằng Thập Thiên Can và Thập Nhị Chi. Nói đến Can Chi là nói đến Ngũ vận, Lục Khí. Ngũ vận sinh ra Thập Thiên Can gồm có Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mỗi vận phụ trách hai Can, một dương, một âm. Thí dụ: Hành Mộc–Giáp Ất Mộc (Giáp là Dương, Ất là Âm), các hành kia cũng vậy. Thập Nhị Chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi khí gồm có hai chi, thí dụ: Dần, Mão thuộc khí Khuyết Âm phong Mộc, Tỵ Ngọ Thiếu Dương tướng hỏa, Thân, Dậu khí Dương Minh Táo Kim, Hợi Tý khí Thái Dương Hàn Thủy, Thìn Tuất, Sửu Mùi thuộc khí Thái Âm thấp Thổ, Tý Ngọ thuộc khí Thiếu Âm Quân Hỏa.
Năm vận sáu khí vận chuyển trong một năm, mỗi vận có 72 ngày, mỗi khí có 60 ngày, bắt đầu khởi hành từ tiết Đông Chí, hễ năm âm thì lui lại 13 ngày. Còn năm dương thì tiến 13 ngày, vì khí âm thì đến bất cập, khí dương thì thái quá. Khí và vận song tiến với nhau không đồng đều, nhưng đến 360 ngày là quân bình nhau, vận có chủ vận, khách vận, khí có chủ khí, khách khí.
Ông Chuyên Húc (2302–2246) lấy tháng Dần làm tháng giêng. Vua Nghiêu (2145) rất am hiểu Thiên văn, đã biết căn cứ vào các vị trí của Mặt Trời ở các Cung sao mà đoán định Nhị Phân (Xuân Phân và Thu Phân), Nhị Chí (Hạ Chí và Đông Chí), định một năm 366 ngày, và sai hai họ Di và Hòa chuyên khảo cứu về Thiên tượng.
Vua Thuấn thì cho làm một bầu Trời giả tạo, với các vòng Hoàng Đạo, Xích Đạo, và các vì Tinh tú nạm vào bằng châu ngọc. Sách Trung Dung khen phép trị nước của Thuấn, Nghiêu, Văn Vũ như sau:
“Đức Khổng nối tiếp Đạo Thuấn Nghiêu,
  Làm sáng tỏ lối đường Văn Võ,
  Trên thuận Thiên thời, dưới theo Thủy Thổ,
  Như Đất Trời bát ngát bao la,
  Che chở muôn loài khắp gần xa,
  Như tứ thời luân lưu chuyển động,
  Như Nhựt nguyệt hai vầng chiếu rạng.”
B.S Nguyễn Văn Thọ
Lời Trung-Dung cho thấy bí quyết trị dân của các vị Thánh Vương xưa là luôn luôn uyển chuyển, xử sự hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp thời, nên lập ra Lịch Pháp. Cổ nhân luôn luôn muốn hoài bảo sống hợp ý Trời, nên lập ra Lịch Pháp, cố làm sao cho nhân sự hợp Thiên cơ Pháp Luật tại tâm, Thiên điều tại sự.
Sự sinh tồn của con người cũng như vạn vật trong Vũ-trụ đều nhận chịu sự tác động của mặt Trời, mặt trăng và các vì tinh tú, các tuyến Vũ-trụ, các từ lực từ trường xuyên qua con người từ giây phút. Tuy ta không thấy, nhưng rất có ảnh hưởng đến môi trường sống của địa cầu, nên khi thời tiết biến động, khí hậu thay đổi là con người bị ảnh hưởng đau bệnh.
Do khí vận chuyển trong không gian, Thánh-nhân mới đặt thời gian theo khí hóa, kinh nghiệm trong một thời gian lâu dài, họ thấy khí thuần âm lên đến thuần dương là 180 ngày có dư, và khí thuần dương xuống tới thuần âm cũng 180 ngày có dư, mới định từ khí lên đến khí xuống là 360 ngày, hay là 24 khí, 8 tiết hay bốn mùa. 24 khí đặt thành 24 tên để làm dấu từng chặn đường do sự chuyển hóa của khí, như tháng giêng: Lập Xuân, Vũ Thủy; Tháng hai: Kinh Trập, Xuân Phân; tháng ba: Thanh Minh, Cốc Vũ; tháng tư: Lập hạ, Tiểu Mãn; tháng năm: Mang Chủng, Hạ Chí; tháng sáu: Tiểu Thử, Đại Thử; tháng bảy: Lập Thu, Xử Thử; tháng tám: bạch Lộ, Thu Phân; Tháng chín: Hàn Lộ, Sương Giáng; tháng mười: Lập Đông, Tiểu Tuyết; tháng mười một: Đại Tuyết, Đông Chí; tháng mười hai: Tiểu hàn, Đại Hàn. Sách Đông Y đã cho ta thấy phần khí của tạng phủ con người tiếp xúc với phần khí của Vũ-trụ, để điều hòa nhịp sống và sanh hóa với nhau, đó là bộ kinh lạc và huyệt của nó.
1. Khí Khuyết Âm phong Mộc của Trời ứng với khí của gan và màng bọc tim của con ngượi.
2. Khí Thiếu Âm quân hỏa của Trời ứng với khí Tim và cật của con người.
3. Khí Thiếu Dương tướng hỏa của Trời ứng với khí mật và tam tiêu của con người.
4. Khí Thái Âm thấp thổ của Trời lại ứng với khí phổi và lá lách của con người.
5. Khí Dương Minh táo kim của Trời lại ứng với khí bao tử và ruột già của con người.
6. Khí Thái Dương hàn thủy của Trời lại ứng với khí bong bóng và ruột non của con người.
Khi khí Trời ứng với khí của người sanh thuận được thì dù chủ khí, khách khí thắng bại bất thường, cũng chẳng gây ra bệnh nặng, song nếu có khắc nghịch thì bệnh tất nặng nguy. Sự tương quan giữa khí vận và người rất chặt chẽ nên cổ nhân mới nói con người là Tiểu Vũ-trụ.
Khi con người học hiểu được giờ, ngày, năm, tháng, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, khi biết được quy luật âm dương thăng giáng, khí vận tuần hoàn, ngũ hành sanh khắc, rồi đem áp dụng quy luật ấy vào đời sống và sự  hoạt động của con người thì nhịp điệu sống giữa Trời, Đất và Người được ăn khớp với nhau, hòa tấu với nhau thành một bản nhạc tình ca Thiên-Nhân hiệp nhất.
Bởi vậy, cho nên, từ người cầm quyền cai trị cho đến nhân dân phải học biết Lịch pháp để sống và sinh hoạt đúng theo Thiên lý lưu hành, theo nhịp điệu sống của Vũ-trụ bao la, hòa đồng với muôn loài vạn vật mà bảo tồn cơ sanh hóa.
Người lãnh đạo nhân dân, người làm chánh trị phải am tường Lịch Pháp.
TRÙ THỨ 5: HOÀNG CỰC.
Hồng Phạm Cửu Trù đặt số 5 ở giữa là Ngôi Hoàng Cực. Hoàng Cực là ngôi Thiên Tử, số 5 là tổng số của Ngũ Hành, ở giữa tượng trưng cho ngôi Thái-Cực, hay là quyền uy, là trí tuệ, sức mạnh của Trung tâm. Nó lập cực ở giữa để quan sát và chỉ huy bốn phương. Số 5 ở giữa, số 10 ở bốn phương là lấy dương để thống suất âm (Lạc-Thư), dương chủ động, âm thuận tùng. Con người có thông minh tài trí, đức hạnh siêu quần, mới đáng lên ngôi Hoàng Cực. Hoàng Cực tượng trưng cho cực điểm tinh hoa nhân loại. Hoàng Cực là nơi Trời người gặp gỡ, nơi thông hội giữa Đất Trời.
Thiên Hồng Phạm nói: Kiến dụng Hoàng Cực, Hoàng kiến kỳ hữu cực”, nghĩa là phàm thiết lập một sự gì phải đứng ở trung tâm sự lý đương nhiên mà phải dùng đạo Đại Trung. Cái vĩ đại là lập ở chỗ trúng tiết (phát nhi trúng tiết). Cho nên Lạc Thư số 5 là số Hoàng Cực đứng ở giữa, theo cổ nhân lấy số tạm biểu thị cho sự biến dịch có trình tự trong Vũ-trụ mà lượng biến thành phẩm và trái lại. Hoàng Cực là rộng lớn, cực là trung tâm đứng giữa làm hướng cho bốn phương, cái duy tinh duy nhất ấy là Đạo truyền thống từ Nghiêu Thuấn đến Vũ. Các Ngài truyền ngôi cho nhau chỉ có 16 chữ: Nhân tâm duy nguy, Đạo Tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết Trung, nghĩa là lòng người thì nghiêng ngã, chân lý thì tế vi, phải tinh ròng nên một mà nắm giữ lấy Đạo Trung.
Bậc làm vua phải làm hết đạo nhân luân, cha con thân kính anh em hết sức hòa ái mà thiên hạ noi theo, cho đến mọi sự mọi vật, mỗi cử chỉ ngôn ngữ không điều nào không thuận theo đạo lý, không thái quá cũng không bất cập. Tiêu chuẩn pháp độ đã xây dựng được thì phước đức đều được quy tụ, lòng nhân đức sẽ chan bủa khắp mọi người, khiến cho thần dân đều cảm mộ oai đức của Vua mà không dám làm điều sai quấy.
Dịch có Thái-Cực làm căn bản cho vạn vật, còn Hoàng Cực là tiêu chuẩn cho con người. Thái-Cực là lý ở Trời, Hoàng Cực là lý ở người, ở Trời muôn thuở không thêm bớt thay đổi. Ở người, nếu không phải là Thánh-nhân quân tử thì không nên lập giềng mối cho nhân loại. Hoàng Cực là chỗ Đại Trung của sự vật trong Lạc-Thư Dịch Lý, chỗ “Nhất quân bình” cho mọi động lực ở thế giới. Vì chỉ ở đây, người ta mới vượt ra khỏi không gian và thời gian, hòa nhập với Vũ-trụ, thống nhất nhân và quả, thể hiện được sự bất dịch và sự biến hóa liên tục trong Vũ-trụ.
Lạc-Thư đặt ngội Hoàng Cực là ngôi Trời mà trời là sự sáng và tình thương yêu chan hòa trong muôn loài vạn vật, có lẽ nào Trời để những ông Vua cai trị dân làm theo lòng tham dục, theo ý riêng mình, bỏ đi tính Trời đã phú cho.
Trong Kinh Thư Đại Toàn có viết: Vua ở chỗ Trung-ương trong thiên hạ, tất phải có nhân đức tuyệt vời, lập ra tiêu chuẩn tối cao cho mọi người, nhân quân cư thiên hạ chi chí trung, tắc tất hữu thiên hạ chi tuyệt đức, nhi hậu khả dĩ lập chí cực chi tiêu chuẩn”.
Để xứng đáng là bậc Thánh Vương, người ở ngôi Hoàng Cực thay trời trị dân, thì phải là bậc siêu quần xuất chúng, thông minh trí tuệ, nhân đức tuyệt vời, noi gương Trời mà hành sự, sống cuộc đời Thánh thiện để cho thần dân noi gương.
Kinh Dịch nói: “Thánh Vương đức độ sánh với Trời Đất sáng láng như hai vầng Nhật Nguyệt, biến thông như bốn mùa, ảnh hưởng người in tựa Thần minh.”
Thánh Vương chính là hiện thân cho mẫu người lý tưởng trong nhân loại, có một đời sống hoàn toàn phù hợp với Thiên lý, với tính bản nhiên, người đã thể hiện được sự toàn thiện.
Các Ngài có bộ óc hoàn toàn trong sáng, hàm tàng súc tích mọi điều u ẩn của Thiên cơ, thoạt mới cảm xúc liền thông suốt ngay. Các Ngài tiên đoán, tiên tri được sự thạnh suy hưng phế của các triều đại, bằng cách quan sát các hiện tượng thiên nhiên, nhân tình thế thái hay bằng phương pháp Bốc Phệ.
Thánh Vương sinh hoạt theo đúng Đạo Trời, không bị vọng tâm sai khiến, tình dục quấy nhiễu, lúc nào cũng ung dung thanh thản, Đạo Trời đã nhập tâm và thể hiện nơi người một cách sáng tỏ. Cho nên, mỗi động tác, mỗi cử chỉ, đi, đứng, nằm ngồi, mỗi lời ăn tiếng nói, ngay đến sự nghỉ ngơi yên lặng cũng đều là những bài học hữu ích cho mọi ngượi. Các Ngài là trung gian giữa Trời Đất, giúp cho Đất Trời sanh thành vạn vật tốt đẹp sum sê, góp phần tô điểm cho vòng Thiên Địa gian này thành một bài ca, một bản nhạc du dương, trật tự, điều hòa trong cuộc sống.
Thánh Vương là bậc kết tinh của tú khí Đất Trời, của Tam Bửu Ngũ Hành hiệp nhất.
Ngày xưa, Đạo tại ư Thiên-Tử, ngày nay Trời đến lập Đạo lần thứ Ba, Đạo tại ở thứ dân, Ngài dạy: Đạo tại thân tâm của mỗi người, Đạo là Trời, Trời là Ta Đạo Thị Thiên, Thiên giả ngã dã. Cho nên, ai ai cũng được tánh Trời phú cho, tánh ấy như một đốm lửa chưa được nhen nhúm, như một dòng suối chưa được khai thông, mỗi người chúng ta cần phải tu dưỡng tinh luyện hoát khai tính Trời ở trong ta, thì ta cũng sẽ trở thành Thánh Vương, Thiên Tử, tất cả mọi người dân khi được tiến hóa đều có thể trở nên con Trời, nhân loại tương lai cũng sẽ trở nên con Trời tất cả.
Có quan niệm như vậy, có hoài bão tin tưởng như vậy, mới có nghị lực dũng tiến trên bước đường công phu, công quả, công trình, xây dựng một niềm tin, một cuộc sống thuần túy, thánh thiện trên bước đường tiến hóa của một kiếp người.
PHẠM TRÙ THỨ SÁU –  TAM ĐỨC:
Để phát huy Vương Đạo trong hệ thống Hoàng Cực, người làm Vua trước hết phải có Tam Đức, Tam Đức là:
1. Chính Trực, 2 Cương khắc, 3. Nhu khắc.
Chính trực là ngay thẳng, cương khắc là cứng mạnh, cương nghị, nhu khắc là mềm yếu, nhu hòa.
Tam Đức là nói cái Đức của Tam Tài Thiên, Địa, Nhân, nơi lập cước của tính tình, chỗ chánh trực của Đạo làm người (nhân chi sinh giả trực). Cương nhu là Đạo của Trời Đất, Đạo Trời lấy cương mà thắng, Đạo Đất lấy nhu mà thắng, Đạo Người gốc ở Trung Chính, có Trung Chính tức có chí công vô tư, mới thực hiện được Vương Đạo, mới điều hòa được Tam Tài, mới thay Trời nắm vững những nguyên lý căn bản của thiên nhiên. Có Trung Chính mới giải được mọi việc xảy ra trong xã hội nhân sinh theo lẽ công bằng hợp tình hợp lý, làm cho xã hội có trật tự ổn định, hòa bình.
Nhưng chỉ chính trực chưa đủ, cần phải có đức Cương, đức Nhu là hai đức tính cần thiết của mọi người. Cương đối với kẻ tiểu nhân, Nhu đối với người quân tử, cương nhu tùy trường hợp, tùy thời mà sử dụng, nhưng không ngoài mục đích là giáo dục con người trở lại nẻo chánh đường lành, và luật pháp được lập thành theo đường hướng Bảo Sanh, Nhân Nghĩa, Đại Đồng.
Thánh-nhân xưa lập ra Luật-pháp, tất nhiên lấy Đạo Trời Đất làm căn bản, lấy Âm Dương làm giềng mối, lấy bốn mùa làm nguyên tắc, lấy Ngũ-hành làm quy luật, lấy mặt trời và tinh tú làm kỷ độ, lấy mặt Trăng làm trắc lượng, lấy Quỷ Thần làm phụ bậc, lấy Lễ Nghĩa làm khí cụ, và lấy lòng người làm môi trường hoạt động.
Lấy Trời Đất làm căn bản mới cắt nghĩa được sự vật. Lấy Âm Dương làm giềng mối mới thấu đáo nhân tình. Lấy tứ thời làm nguyên tắc mới thúc đẩy được công việc. Lấy mặt Trời và các vì sao làm kỷ độ mới định được lịch trình công tác. Lấy mặt trăng làm trắc lượng mới tiến hành công việc mỹ mãn. Lấy Quỷ Thần làm phụ bậc mới có đức tin, bền chí kiên tâm mà tiếp tục công trình.
Lấy Ngũ-hành làm quyy luật mới có thể biến hóa. Lấy nhân nghĩa làm khí cụ, công việc mới thành tựu mỹ mãn.
Lấy tâm người làm môi trường hoạt động, vì con người nhân tâm mới là căn bản.
Tóm lại cơ lập pháp để trị nước của các bậc Thánh Vương bắt nguồn từ Bát Quái, từ Trời, từ Thái Cực, Âm Dương Ngũ Hành và theo chiều thuận nghịch sanh thành khắc chế của Đạo Dịch.
Nhân quân sau khi đã lên ngôi Hoàng Cực thay Trời trị dân, phải biết chấp kinh quyền biến, linh động tùy thời, lúc cương lúc nhu để ứng phó với từng trường hợp, từng hoàn cảnh.
- Lấy Đức Chính trực trị dân trong lúc nước nhà trật tự an lành.
- Lấy Cương quyết cai trị nước, trong lúc có biến loạn.
- Lấy Nhu hòa cai trị nước trong lúc thái bình an lạc.
Đường lối Vương Đạo ngày xưa có khác với các chủ nghĩa chánh trị ngày nay.
Ngày nay, trong chính trường, người ta không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn xảo trá, độc ác, gian lận, để loại trừ địch thủ, để sách động quần chúng, để bảo vệ quyền lợi phe đảng mình.
Hai chữ quyền lợi đặt lên trên Lương-tâm Công-lý.

PHẠM TRÙ THỨ BẢY – KÊ NGHI.
Kê Nghi là tra xét những điều mình nghi ngờ bằng cách Bốc Phệ. Bói bằng mai Rùa gọi là bằng Bốc. Bói bằng cỏ Thi thì gọi bằng Phệ. Bốc Phệ là cách thỉnh ý Trời và Thần Linh của các bậc Quân Vương ngày xưa. Các vị Quân-vương  ngày xưa trọng phép bói Thi Quy vì đó là cách thỉnh ý Trời, chứ không phải là mê tín. Họ dùng Thi Quy để bói, vì cỏ Thi và mai rùa đều là Linh vật, Rùa sống lâu, mai rùa tượng trời, yếm rùa phẳng tượng Đất. Rùa là giống lưỡng thê, sống ở dưới nước trên khô đều được cả. Cỏ Thi cũng là loại cỏ sống lâu cả trăm năm, một gốc có một trăm cộng, cho nên cũng được gọi là Linh Thảo. Quân Vương xưa coi việc Bốc Phệ là một hành vi đạo đức, xin thỉnh ý Trời khi sự việc bị bế tắt, không tìm ra lối thoát. Bốc Phệ cũng là một giải pháp khiến mọi người đều đồng tâm hiệp lực, vì là ý chỉ của Trời. Các quan chuyên việc Bốc Phệ phải có lòng thành chí công vô tư, mới đủ đức mà truyền đạt ý kiến của các bậc Thần Linh; Nhà-vua khi có điều đại nghi trước phải hỏi lại lòng mình, rồi bàn cùng khanh sĩ, bàn cùng nhân đân, cuối cùng mới thỉnh ý Trời qua Bốc Phệ, cả ba ý kiến trùng hợp hòa đồng nhau là có kết quả tốt đẹp.
Phép bói toán này vốn là môn Toán học của các nhà Thuật số, dùng để lén biết cơ Trời, tuy mình đang ở hiện tại, nhưng có thể ngó thấu tương lai. Môn Toán học này căn cứ vào Đạo Dịch, lấy mâu thuẩn Âm Dương, Ngũ Hành biến hóa, giúp các nhà Chiêm tinh Thuật Số, suy lường những điều tất yếu có thể xảy đến cho tương lai. Nhưng môn học quá uyên thâm huyền bí, ít người có thể học được, nên càng ngày càng bị thất chân truyền, biến thành môn học dị đoan mê tín.
Khi xét nội dung của trù Kê Nghi, chúng ta thấy rõ cổ nhân tin tưởng đặc biệt môn học nầy. Cho nên, Hà-Đồ và Lạc-Thư đều dùng số đại diễn để mở khoa Huyền Bí học cho hậu thế.
Bình giải Kinh Dịch, Đức Khổng Tử cũng nói: Tìm tòi những điều thâm u, nghiên cứu những điều ẩn áo, thâu thái những điều sâu xa, đạt đến chỗ viễn cách để định việc lành dữ cho thiên hạ, thúc đẩy sự cố gắng của thiên hạ chẳng có gì hơn bằng cỏ Thi mai Rùa. (Phu Tử chi tán Dịch dã, viết: Thám trách sách ẩn, câu thâm trí viễn, dĩ định thiên hạ chi kiết hung, thành thiên hạ chi vỉ giả, mạc đại hồ Thi Qui).
 Thực ra cỏ Thi và mai Rùa chỉ là phương tiện Thánh-nhân dùng để Thần minh đến khải thị giúp người đời biết điều kiết hung họa phước.
Biết bao nhiêu danh nhân ngày xưa thông hiểu Nhâm, Cầm, Độn, Toán như: Khương Tử Nha, Quỷ Cốc Tử, Trương Lương, Khổng Minh, Trần Đoàn, Thiệu Tử, Trạng Trình v.v…, nếu không cảm thông liên lạc với Trời, với Thần minh để khải thị cho đời những tiên tri về quá khứ, vị lai, thì tiếng tăm của họ đâu còn lưu lại cho mãi đến ngày nay.
Biết được những điều còn ở trong vô hình, chưa xảy ra mới là Thượng-trí. Biết được những điều xảy ra trước mắt chỉ là kẻ hạ trí. Phạm trù Kê Nghi có mục đích cầu mong hỏi ý Trời, nghe lời Thần minh dạy bảo, mỗi khi bói toán đều ghi kết quả vào lịch sử. Đấng Minh-quân, cai trị dân làm sao cho trên thuận ý Trời, dưới thuận lòng người, văn võ bá quan đều cảm thông nhất quán, như thế là đạt được kết quả tốt đẹp.
PHẠM TRÙ THỨ TÁM – THỨ TRƯNG:
Đấng Quân-vương cai trị một nước, sự lãnh đạo, cách hành động của Ngài, hay dở, tốt xấu, đều cảm ứng đến nhân dân và Trời Đất, nên Trù Thứ Trưng là để chứng nghiệm điều lành dữ, tốt xấu.
Thứ Trưng có 5 tiết:
1. Mưa – Đối với Ngũ hành là Thủy.
2. Nắng – Đối với Ngũ hành là hỏa.
3. Nóng – Đối với Ngũ hành là Mộc.
4. Lạnh – Đối với Ngũ hành là Kim.
5. Gió – Đối với Ngũ-hành là Thổ.
Mưa, nắng, nóng, lạnh, gió mỗi tiết đều do thời mà đến nên gọi là Thời tiết. Năm thứ ấy đến phải thời có trật tự, đúng thời tiết thì cỏ cây được tươi tốt rườm rà, mùa màng phong túc, nhân dân hoan lạc âu ca, chế độ vững bền, triều đình tồn tại lâu dài. Đó là nhờ các bậc minh quân cai trị theo nhân chính. Đức Vua nhân từ sáng suốt, hiền thần tận tụy hy sinh, xã hội được hòa bình, nhân dân được hạnh phúc; trái lại Quân quan cai trị  theo lối hà chính thì nhân tài bất phục, nhân dân chống đối, trong nước có nhiều tai họa xảy đến.
Thời tiết mưa, nắng, nóng, lạnh, gió, năm thứ ấy đến mà thái quá hay bất cập đều ảnh hưởng xấu.
Đây là những trường hợp có những triệu chứng tốt.
- Đấng Quân-vương nghiêm túc đoan trang thì mưa phải mùa.
- Cai trị giỏi thì nắng phải thời.
- Khôn ngoan khéo léo thì nóng phải lúc.
- Mưu lược tài giỏi thì lạnh phải thời.
- Thánh thiện nhân đức thì gió phải mùa.
Đây là những trường hợp có triệu chứng xấu:
- Đấng Quân-vương có tánh nóng nảy cuồng loạn thì mưa nhiều lụt lớn.
- Hành động độc tài, bất chấp pháp thì nắng nhiều hạn hán.
- Việc làm lười biếng uể oải thì nóng nhiều.
- Hoạt động vội vàng hấp tấp thì rét nhiều.
- Nhà Vua tư tưởng mờ ám thì gió nhiều, cuồng phong, bão tố, năm tháng ngày giờ nếu được mưa thuận gió hòa thì lúa thóc được mùa, nhân dân được no ấm, gia đình được an khang hạnh phúc, đó là nhờ Vua cai trị sáng suốt, nhân đức, thương dân.
Nếu thời tiết không điều hòa, mưa nắng thất thường, bão lụt thường xuyên, hoặc hạn hán mất mùa thiếu đói, xã hội hỗn loạn, ấy là do nền cai trị hôn ám bất minh, độc tài tham nhũng, dân chúng bất bình, hiền tài không cộng tác.
Ảnh hưởng của thời tiết quan trọng như vậy, cho nên đấng Quân-vương cai trị dân phải am tường Lịch pháp, lưu ý đến thời tiết để tiên liệu cuộc sống cho dân, bảo vệ sự no ấm cho nhân dân.
Một vị nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo cả một đất nước, phải chịu trách nhiệm trước sự đói rét, bệnh tật, tai nạn, dốt nát, khổ đau của nhân dân. Trời mưa nắng phải thời đúng tiết là điều vui mừng cho nhà Vua, nếu trái lại nắng hạn, bão lụt, tai Trời dồn dập xảy đến là điều đáng lo, nhà Vua nên tự trách mình cai trị dân thiếu nhân đức, thiếu ưu tư trách nhiệm.
Cổ nhân đã nói:
“Tiên, thiên hạ chi ưu nhi ưu,
  Hậu, thiên hạ chi lạc nhi lạc”
Nghĩa là lo trước những điều thiên hạ đang lo, vui sau những điều thiên hạ đang vui. Bởi vậy, các bậc Minh-quân lương-tướng có tâm huyết thương dân, giàu lòng vị tha, thường tự khiển trách mình khi chẳng may đất nước bị sự thịnh nộ của Trời giáng tai họa xuống, nào nắng hạn, nào bão lụt, nào hoàng trùng ôn dịch, địa chấn thiên tai, nhân dân bệnh tật, đói khát. Lúc đó họ tự vấn lương tâm, và tự trách mình có những hành động cuồng dại sai trái, hành động trái mệnh Trời, nên mới có những trưng triệu xấu xảy đến như vậy.
Tự trách rồi phải sửa sai, đổi mới, không còn bảo thủ, độc tài quá khích tự cao, hành động theo dục vọng, cuồng tín, sai lầm, nghịch lại nguyện vọng của nhân dân, của đà tiến hóa chung nhân loại.
Khi người cai trị dân mà biết mặc cảm tội lỗi, cảm thấy tai Trời, ách nước, nạn dân là do họ gây ra, nguyên nhân là do hà chính, bất công, tham ô, nhũng lạm để xảy ra nhiều cảnh huống thương tâm, bất công đầy rẫy trong xã hội, nhân dân đói khổ, rối loạn nhiều nơi, kiện thưa chồng chất không giải quyết được. Họ tự phản tỉnh, tự sám hối, không còn độc tài vị kỷ, không còn bảo thủ mị dân, mở rộng lòng vị tha giác ngộ, đem những của cải tham nhũng bóc lột của nhân dân, sung vào ngân quỹ quốc gia xã hội, để xây đựng công ích, công lợi, trả lại sự công bằng cho xã hội.
Người cầm quyền một nước có một đường lối chánh trị hay thì nắng phải lúc, có một thái độ ôn hòa trang nghiêm, cẩn trọng thì mưa phải thời, có một lối xử sự khôn ngoan, uyển chuyển thì nóng có chừng mực, có mưu Thần chước Thánh thì rét vừa phải, có những hành động cử chỉ sáng suốt thì gió phải thời.
Tóm lại, trù Thứ Trưng là tấm gương lớn , có những điềm Trời treo trước mắt, để cho các bậc Vua chúa soi vào sẽ thấy thực trạng đất nước mình đang cai trị có những cái ưu, cái khuyết, sở trường, sở đoản của chế độ mình để nghiêm khắc sửa chữa những điều lệch lạc, quyền biến thích nghi với cơ tiến hóa. Nó còn là một bản kiểm thảo của các bậc lãnh đạo đất nước trước bổn phận trách nhiệm đối với quần chúng nhân dân.
Những điều trưng triệu tốt hay xấu đều bởi do ảnh hưởng tư tưởng hành động và thái độ của người lãnh đạo nhân dân tốt hay xấu, nhân nào quả nấy có tự kỷ ám thị như thế, mới thấy được quy luật báo ứng của Trời Đất.
Con người là Chủ Nhân Ông của Vũ-trụ, giữ vai trò trọng yếu trong Tam Tài, chẵng những có bổn phận tham Thiên lưỡng Địa, mà còn “Dữ Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể”, nên Hồng Phạm đặt trù này là để làm nơi hội thông giữa Trời, Đất, Người. Nói một cách khác là ráp nối con người với Vũ-trụ, cùng chung một kênh, một tầng số, một mạng điện lưới duy nhất mà Đức Khổng-Tử gọi là Đạo Nhất-quán.
PHẠM TRÙ THỨ CHÍN – NGŨ PHƯỚC LỤC CỰC:
Trời Đất có âm dương, con người có thiện ác, làm thiện thì được hưởng phước, làm ác thì phải mang họa.
Phước thì có ngũ phước, họa thì có lục cực.
Nhà Vua muốn biết mình cai trị hay dở thế nào, nên xuống sát dân mà khảo sát, nhìn vào thân thể, đời sống và tình cảnh sinh hoạt hàng ngày của dân thì sẽ thấy. Nếu cai trị tốt thì dân được sung túc, ấm no hạnh phúc, giàu có, sống lâu, người dân có đạo đức biết thương yêu đùm bọc nhau. Trai tráng thì thân hình khỏe mạnh vậm vỡ, hằng ngày hăng say lao động, trẻ thơ da dẻ hồng hào, người già cả có nơi an dưỡng thanh nhàn, công nhân không thất nghiệp, ngoài đường không có kẻ ăn xin.
Nếu cai trị xấu thì dân khổ sở, lao lung, tật bệnh, nghèo khổ, chết non, nhìn vào thân thể của dân, nếu thấy họ yếu đuối gầy còm teo tóp già trước tuổi, thì biết đời sống họ quá thiếu thốn bần hàn, cực khổ.
Ngũ Phước, Lục Cực là kết quả của một thể chế chánh trị nhân đức hay tàn bạo.
Phước có 5 điều:
1. Thọ                                     = Sống lâu
2. Phú                                     = Giàu có
3. Khương ninh                     = Thịnh vượng, yên ổn
4. Du hiếu đức                       = Ham Đức tốt
5. Khảo chung mạng            = Chết được trọn đời.
Lục Cực gồm có 6 điều:
1. Hung đoản chiết               = Hung bạo chết yểu
2. Tật                                      = Tật bệnh đau ốm
3. Ưu                                      = Lo buồn
4. Bần                                     = Nghèo khổ
5. Ác                                       = Ác nghiệt
6. Nhược                                 = Yếu ốm.
Trên đây là quan niệm thiện và ác, tốt và xấu mà cũng là tiêu chuẩn giá trị nhân sinh mà người có nhiệm vụ phải làm gương mẫu cho mọi người noi theo. Sở dĩ sướng năm khổ sáu là vì chứng tỏ việc đời lành ít dữ nhiều, sự chi phối thế lực tiểu nhân mạnh hơn quân tử, minh quân lương tể rất hiếm, mà hôn quân bạo chúa thì nhiều, trên sân khấu tuồng đời thường diễn ra như vậy.
Ai chẳng muốn sống lâu, mạnh khỏe, giàu sang, bình yên, hạnh phúc, suốt đời đừng gặp rủi ro tai nạn. Ai chẳng sợ nghèo đói, bệnh tật, chết yểu, hoạ tai đem đến nên Ngũ Phước, Lục Cực ngày đêm mọi người đều suy tính.
Một là tranh thủ làm sao có Ngũ Phước.
Hai là cố gắng tránh xa Lục Cực.
Trù thứ chín này Thánh-nhân muốn đề cao cảnh giác, khiến mọi người xu cát tỵ hung.
Nay mọi người muốn theo thiện bỏ ác thì phải làm bằng cách nào? Từ đấng Quân-vương cho đến kẻ thứ dân, nếu không biết lo NỘI TỈNH NGOẠI TU thì làm sao hưởng được phước đức, làm sao trở nên người lương thiện. Muốn được vậy trước phải CÓ LÒNG TIN TRỜI, LÀM THEO Ý TRỜI. Trời là ánh sáng, là không khí, là tình thương yêu, là lẽ hằng sống, là cơ Bảo Sanh, Nhân Nghĩa, Đại Đồng. Tin có Ông Trời mới tích cực hoạt động theo lẽ Trời, tin có Ông Trời mới từ bỏ mọi đam mê dục vọng, sa đọa, đồi trụy, mới bảo vệ được thân thể khỏe mạnh, bình an, sống lâu, hạnh phúc, khi chết Linh-hồn sẽ được siêu thăng Thượng-giới. Làm được như thế là hưởng được ngũ phước, tránh xa lục cực.
Xưa nay, người làm chánh trị không ngoài ước muốn đem lại tự do, no ấm, hạnh phúc cho toàn dân, tránh cho dân khỏi bị tai ương thống khổ, một vị Minh-quân có lòng thương dân, che chở dìu dắt, đỡ đần dân, tổ chức xã hội làm cho dân no ấm, khôn ngoan, và có đạo đức. Không ép buộc dân sưu cao thuế nặng, không đem những luật lệ phi lý làm bẫy rập dân, tìm cách giúp đỡ những người quan quả cô độc, ấu thơ côi cút, tránh cho dân vướng vào đao binh lửa đạn vì tham vọng bành trướng bá quyền, dạy dân trọn tin Trời và sùng thượng những tập quán thuần phong mỹ tục. Giáo hóa cho dân Lễ nhạc để sống có trật tự, lễ nghĩa, hòa bình. Được vậy là chắc chắn dân được hưởng ngũ phước. Còn như người cầm quyền cai trị dân, coi dân như cỏ rác, đàn áp hành hạ dân, đẩy dân đi di cư mà không để ý đến những nghề nghiệp tập quán sinh sống của họ. Sử dụng dân không đúng khả năng, bắt dân làm mùa không hợp thời tiết, làm cho đời sống họ bị xáo trộn, công việc làm ăn của họ bị gián đoạn bế tắt. Bắt dân phục vụ không trả tiền, áp đặt lên dân những nghị quyết, luật lệ quái ác, đẩy xô họ vào vòng binh đao khói lửa, hy sinh không chính nghĩa để rồi họ bị chết chóc, hoặc bị tàn phế cuộc đời.
Những lầm than tai họa ấy, không phải là do nghiệp chướng của nhân dân mà chính lỗi tại nhà vua thích quyền uy địa vị, thích lấn đất chiếm thành, thích hành động theo tham vọng cuồng tín, thiếu sáng suốt khôn ngoan, bắt dân làm vật thí nghiệm theo lý tưởng chủ nghĩa phiêu lưu.
Lạc-Thư dành trù chót cho Ngũ Phước Lục Cực, Thánh-nhân dụng ý nêu lên “LUẬT NHÂN QUẢ” thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, làm lành thì có điều lành trả lại, làm ác thì có điều ác trả lại, luật Trời tuy không thấy mà chẳng lọt mảy hào ly.
“Lồng lộng lưới Trời tuy không thấy,
  Thưa mà chẳng lọt mảy lông nào!”
Cho nên đấng Quân-vương cai trị dân phải biết phân biệt lành dữ, sướng khổ mà định hướng cho nhân dân xây dựng gia đình quốc gia xã hội trên đường nhân nghĩa đạo đức.
Tổng luận:
Cửu Trù Hồng Phạm là sở dụng chính yếu đầu tiên của Lạc-Thư. Nói đến Lạc-Thư mà không đề cập đến Cửu Trù thì coi như chưa hiểu được Lạc-Thư.
Lạc-Thư có chín số, mỗi số một trù gọi chung là Hồng Phạm. Cái Đại Pháp ấy giúp cho Vua Hạ-Vũ trị dân, tổ chức xã hội, điều khiển chính quyền duy trì an ninh trật tự quốc gia, đưa đất nước đến thanh bình thạnh trị.
Lạc Long Quân cũng lấy Lạc-Thư và Hồng Phạm Cửu Trù làm tiêu chuẩn để khai quốc trị bình.
Cái tác dụng của Cửu Trù gồm có Đạo Trời, Đạo Đất, Đạo Người, bậc Minh-quân coi theo đó mà cai trị thiên hạ, thiết tưởng kim cổ, Đông-Tây chưa có một học thuyết Chánh trị nào sánh kịp.
Hà-Đồ Lạc-Thư là nền văn hóa văn minh của thỉ tổ Lạc Việt nguyên sơ. Ngày nay, người Việt Nam đã có cơ hội tìm lại cái Bảo Vật xa xưa đã bị đánh mất, đó là nguồn minh triết của Đạo Dịch mà nay đổi tên mới là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là Đạo Cao-Đài.
Thượng-Đế đến lập Đạo tại nước Việt-Nam, Ngài có hứa: “Báu xưa hoàn trả con Rồng cháu Tiên”, ấy là Đạo Dịch của Vua Phục Hy, Thỉ Tổ của nòi Lạc-Việt nay đã được tái sinh. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển II, trang 152, đàn cơ năm Mậu Thìn (1928), mục giới cấm sát sanh Thầy có dạy: “Các con, Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy, và ngôi Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn-Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng và thú cầm, gọi là chúng sanh.
Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu sanh cũng do bởi Chơn Linh Thầy mà ra. Hễ có sự sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận. (Thầy là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ông Trời giáng cơ dạy Đạo xưng là Thầy để được thân mật gần gũi với học trò là nhân sanh đạo hữu).
Thượng-Đế đến lập Đạo lần ba này tại Việt-Nam, Ngài đã truyền lệnh cho môn sanh Cao-Đài xây Bát Quái, mở Cửu Trùng, dựng Hiệp Thiên Đài, lập thành Thánh Thể, và tạo quả Càn-Khôn để thờ Ngài. Đây phải chăng Đức Thượng-Đế đến giao cho dân tộc Việt Nam một sứ mạng cao cả là phục hồi Đạo Dịch, là Đạo của Tổ Tiên Việt Nam, để tái lập một bầu Trời Đất mới, theo đúng chân truyền Đạo Pháp, ứng hợp với thời kỳ Thượng-Ngươn Thánh Đức.
Trên năm nghìn năm đã trôi qua, Đạo Dịch đã thất chân truyền, nên học giả phần nhiều diễn dịch theo từ chương chữ nghĩa, theo tình cảm lý trí, chứ phần tâm linh ít ai đạt thấu, nên chân lý Dịch bị phân tán ra nhiều hệ phái. Chân truyền của Dịch bị bao lớp bụi thời gian bao phủ che kín, những lớp sóng phế hưng của lịch sử đã làm cho Kinh Dịch pha trộn nhiều màu sắc, nhiều ý kiến rắc rối vô cùng. Hồn Dịch bị phiêu bạc bơ vơ, không biết đâu là cội nguồn xuất xứ. Một dân tộc sẵn có của báu bởi Trời cho Chí bửu nhân sinh vô giá định, mà không biết gìn giữ tô bồi, đã bị bỏ rơi, hay bị cướp đi trong thời Bắc thuộc. Là người Việt-Nam, ai lại không bùi ngùi hối tiếc!
Ngày nay, đất nước đã được an bình, nền kinh tế nhân dân đã được phát triển, chỉ thiếu một điều là hồn nước chưa được chiêu hồi, Đạo Dịch chưa được triển khai, con đường về nguồn chưa thông suốt, chân lý Đạo Dịch  nay đã bắt đầu hoát khai như Trời bình minh hừng sáng. Đạo Cao-Đài có trách nhiệm làm sao cho ánh sáng Đạo Dịch được tung tỏa khắp địa cầu, để nhân loại được sưởi ấm trong tình thương yêu và lẽ hằng sống của Thượng-Đế./.
Viết xong ngày 25 tháng 12 năm 2000
      (29 tháng 11 năm Canh-Thìn)
Giáo-Sư Ngọc Trường Thanh