Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

HỌC TU


HỌC TU 1

Thằng Khùng hỏi đạo Thằng Điên,
Tu công lập đức tham thiền là sao?
Điên rằng: mi nói tào lao,
Đức nào lập được, công nào có cho!
Như mi tu ấy tu mò,
Mò trăng dưới nước khéo lo tìm hoài...
Hao  hơi, mỏi sức bên ngoài,
Nói năng tạp khí nặng mùi trần gian.
Hỏi chi đến việc tham thoàn,
Đằng vân giá vũ dọc ngang trên Trời.
Như mi muốn học đạo Trời,
Phụng hành tín thọ những lời dạy sau:
Một là bỏ thói lau chau,
Hai là phải hiểu trước sau rõ ràng.
Ba là lòng chớ cưu mang,
Sách kinh chữ nghĩa Khùng càng Khùng thêm.
Không nghe không thấy im lìm,
Rồi mi tự biết khỏi tìm hỏi tao...
Khùng rằng : quả thiệt vậy sao,!
Cái công khai ngộ làm sao đáp đền?
Điên rằng: khỏi đáp khỏi đền,
Điên này đâu nhớ đâu quên đứa nào....!

Thiện Ngộ

HỌC TU 2

Không nghe không thấy im lìm,
Chín năm đóng cửa để tìm chơn-tâm.
Khùng xưa tỏ chỗ mê lầm,
Tự tâm giải tỏa lạc-lầm ngày xưa.
Một mình hoan lạc say sưa,
Ngắm nhìn vạn vật như chưa được nhìn!
Mây trời mặt nước sắc in,
Chim bay cá lội thú xin trái rừng.
Thênh thang hạc nội tưng bừng,
Véo von tiếng hót nghe mừng vui tai!
Sánh bằng ở cõi Thiên-Thai,
Tâm hồn phơi phới trong ngoài tiêu dao.
Hoa cười như mở môi chào,
Hương dâng thơm ngát như trao ý lành! ...
Một hôm nhớ đến đàn anh,
Khùng nghe mang mác ngọn ngành bâng quơ.
Đã hay sao lại hửng hờ,
Khùng đây còn muốn đợi chờ Thằng Điên!

Thiện Ngộ
04-01-2010

HỌC TU 3

          Thằng Khùng hỏi đạo thằng Điên,
Thế nào khai mở Châu-Thiên của mình?
          Điên rằng mi chớ tài lanh,
Tánh tâm chưa định mà hành pháp chi!
          Về đi! trước học lễ-nghi,
Nói năng thưa hỏi đứng đi cho rành.
          Như mi chuốc thói ham danh,
Sắc tài thậm nhiễm vận hành sao nên.
          Công-phu dụng chổ chí bền,
Nhứt tâm cầu pháp mới nên phận trò.
          Cho hay: sâu chống cạn dò,
Thậm thâm vô thượng khó đo đạo mầu!
          Kinh rằng: “Lưỡng nhãn song mâu",
Gom soi quan khiếu bắt cầu thố ô.
          Thong dong hít thở ra vô,
Niệm vô biệt niệm: Hà-đồ  Lạc-Thơ.
          Âm dương động tịnh có giờ,
Thủy Nhâm Hỏa Bính, tri cơ mới tường.
          Mười hai Kinh mạch mở đường,
Năm tạng sáu phủ hỗ tương trong ngoài.
          Giới quy gồm đủ ân oai,
Ấy là pháp-giới không ngoài thân tâm.
          Thương Mi tìm đạo nhiều năm,
Chưa nghe hương-vị thâm trầm khát khao.
          Chìa đây! hãy mở Động-Đào!
Khai thông Khí mạch dồi dào xung thiên.
          Mệnh-môn, Thân-trụ bình yên,
Linh-Đài bái Phật qua miền Bồng-Lai.
          Du dương sáo trúc đêm dài,
Tiêu thiều lảnh lót hòa bài triều thiên.
          Một trời một đất nhà riêng ...!

                                                                   Thiện-Ngộ

HỌC TU 4

Điên còn  đang nói huyên thiên,
Khùng ta đứng dậy ý riêng tỏ bày.
Cúi đầu khép nép vòng tay,
Tôn Huynh học đạo  lễ này nhận cho!
Từ nay xin được làm trò,
Tới lui học hỏi lần dò huyền vi.
Điên rằng: vui miệng một khi,
Nói qua cho biết nhiều khi vẫn lầm.
Ta tuy ngộ đặng tự-tâm,
Diệu minh bổn-giác thậm thâm khó tường.
Gặp mi chỉ lối đem đường,
Mong mi sám hối vào trường chánh chơn.
Đạo Trời đừng có thua hơn,
Ra công lập hạnh oán hờn quên đi.
Chánh nghiệp, tinh tấn, tư-duy,
Phát tâm hạ thủ bước đi từ từ.
Kinh rằng: “Nhược thiệt nhươc hư”,
Thang mây rộng mở, thuyền từ sẵn đưa.
Có câu sách nói từ xưa:
Thân này khó được, pháp chưa nghe từng!
Từ nay Ngươi chớ dửng dưng,
Tam-Kỳ Phổ-Độ tin mừng cho mi.
Thành tâm đến đó quy y,
Thọ-truyền bửu-pháp kịp kỳ Long-Hoa ...

Thiện Ngộ


HỌC TU: ẤN TAM TÀI

Thầy Điên gọi học trò Khùng,
Lên đây nghe pháp “Trung-Dung” của Thầy.
Xưa nay trời đất vần xoay,
Nhựt lai Nguyệt vãng đổi thay Địa-cầu.
Thế-gian mưa nắng dãi dầu,
Cỏ cây, cầm thú nhiệm mầu hóa sinh.
Con người đứng phẩm tối linh,
Trong cơ tiến-hóa hữu-tình tương liên.
Cho nên phải rõ diệu huyền,
Trên trời, dưới đất định yên lâu dài.
Nay Trò vào Đạo Cao-Đài,
Tam-quy, Ngũ-giới là bài đầu tiên.
Tay trái nắm giữ mối giềng,
Ngón cái ấn Tý: Khai Thiên rõ ràng.
Cung Sửu, Tịch Địa tiếp sang,
Ngón cái tay mặt mau toan bấm vào.
Sanh Nhân đã tỏ âm hao,
Đốt giữa ngón cái ấn vào Dần cung.
Hai tay chắp lại thong dong,
Để ngang tại ngực khâm tuân lời Thầy.
Âm dương hiệp-nhứt là đây,
Tam-tài bí chỉ có ngày rõ thông.
Ngũ hành, Ngũ-giới quan phòng,
Trò nghe rán nhớ, sửa lòng  học tu ...

Thiện-Ngộ


HỌC TU: NIỆM DANH HIỆU THẦY

Để chân đường Đạo mịt mù,
Nhứt tâm niệm tưởng công-phu hằng ngày.
Danh Thầy gồm đủ mười hai,
Thời Thần luân-chuyển hoát khai đạo mầu.
NAM phương trữ Bính-hỏa đầu,
Là nơi Thượng-Đế bắt cầu tình thương.
là Vô-cực vô thường,
Hư-không vô ngại khí dường có không.
Chữ CAO vô thượng, chí công,
ĐÀI tiền sùng bái Nho-tông lập đời.
TIÊNTiên-đạo thảnh thơi,
ÔNG tu đắc quả, giúp người lợi sanh.
ĐẠI ấy là đại-bi tâm,
BỒ đề chân lý thậm thâm diệu huyền.
TÁT công cứu độ khắp miền,
Nguyện lực to lớn trợ duyên dân lành.
MA HA TÁT, viên mãn thành,
Quy nguyên Tam-giáo, năng hành pháp linh...
     Nam mô Cao Đài Tiên-Ông Đại Bồ Tát Ma ha tát
Thiện-Ngộ


HỌC TU : NGŨ-HÀNH HIỆP NHẤT

Âm dương Nhựt Nguyệt đã rành,
Nay Thầy tiếp tục Ngũ-hành bày phô.
Thái-cực thể nhập Hà-Đồ,
Đất Trời hoán chuyển quy-mô sanh thành.
Thiên nhứt sanh THỦY ấy danh,
Thiên tam, Thiên ngũ, MỘC dành THỔ an.
Địa nhị sanh HỎA rõ ràng,
Sanh KIM, Địa tứ luận bàn cho thông.
Sanh khắc chế hóa mênh mông,
Lớn: bao trời đất, nhỏ : trong muôn loài!
Mộc Kim, Thủy Hỏa an ngôi,
Đông Tây định vị, rạch ròi Bắc Nam.
Từ Ngôi Thái-Cực Thánh-Hoàng,
Lập thành Hoàng-Cực, khởi đoan cơ mầu.
Lạc-Thơ hiễn lý cao sâu,
Quay về nội-tại tìm cầu bản thân.
Thận, Tâm, Can, Phế riêng phần,
Quy gom Hồn, Phách, Tinh, Thần bốn-phương.
Tỳ Thổ Ý tại Trung-ương,
Đơn-ngươn Hoàng-Lão, Pháp-Vương chấp trì.
Năm Rồng hiệp nhất ngũ-chi,
Đỡ thuyền Bát-Nhã thoát ly biền trần.
Xa rời khỏi bến mê-tân,
Thì trò mới được dự phần Long-Hoa.
Tiền-trình đến đấy không xa,
Sẵn đây Ta cấp cho ba Đạo-Phù.
Trò gìn giữ lấy mà tu ...
Ngâm:
Họa Tam-Thiên linh-phù tiếp điễn,
Cho trò Tiên phát-triễn tâm-cơ,
Cảm giao bí nhiệm Đồ-Thơ,
Là ngày Thống nhứt Thầy chờ đợi con …!

Thiện-Ngộ (19.01.2010)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét